Không ít người thắc mắc: Chè và trà có khác nhau không? Sao cùng là đồ uống từ cây chè mà khi thì gọi là “chè”, khi lại gọi là “trà”? Không phải là chuyên gia về Ngôn ngữ học nhưng thấy câu hỏi khá thú vị nên tôi tò mò thử tìm hiểu về hai lối gọi này.

chè và trà

Chè là gì?

Trong ngôn ngữ Việt, “chè” là từ chỉ cây chè và các sản phẩm từ cây chè mà ra. Cũng từ “chè”, đồng âm, khác nghĩa còn để chỉ những thứ đồ ăn, uống hoặc vừa uống vừa ăn. Đó là các loại chè ngọt được nấu bằng đường (hay các loại mật mía, các loại đường khác nhau) nấu cùng với một số loại hạt, củ, quả… Loại chè này xin không bàn ở đây mà ta hãy tìm hiểu về các loại chè được chế biến từ cây chè vốn rất phổ biến ở Việt Nam.

Nói đến nước chè trong tiếng Việt, ta chỉ dành để nói về các sản phẩm uống làm từ lá chè, cành chè, nụ hoa chè mà thôi. Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, là vùng phân bố tự nhiên của cây chè. Nhiều nhà khoa học cho rằng: Việt Nam nằm trong vùng phát sinh ra thứ cây uống quan trọng này của nhân loại mà bằng chứng quý giá là những rừng chè cổ thụ có thân lớn đến hai người ôm không xuể được phát hiện trong rừng nguyên sinh trên đỉnh Fansipan ở độ cao từ 2200 m – 2800 m.

Quay trở lại vấn đề tên gọi, ta có thể nghĩ nếu cây chè có nguồn gốc ở Đông Nam Á và Việt Nam nằm trong vùng phát sinh của sản vật quý giá này thì hẳn là tên gọi của loại cây đó phải có liên hệ đến địa bàn phân bố sớm của chúng. Phải chăng từ “chè” có nguồn gốc lâu đời trong tiếng Việt cổ, sau đó, các nhóm cư dân khác du nhập cây này, họ sử dụng tên gốc và nói chệch ra thành “trà” hay thành những từ khác xuất phát từ nơi mà họ du nhập?

Khi tìm hiểu ngôn ngữ Mường, vốn liên quan mật thiết đến ngôn ngữ Việt cổ, thì ngôn ngữ này gọi thứ cây mà chúng ta đang bàn đến là “che”, tức không nhấn mạnh vào dấu huyền như cách nói của người Việt hiện tại. Người Thái di cư xuống Bắc Việt Nam và một vài dân tộc khác cũng gọi chè là “che” hoặc gần như vậy.

Chè là tên gọi thông dụng của các kiểu uống mang tính bình dân chế biến từ cây chè, ví dụ chè xanh, chè tươi, chè búp, chè bạng, chè nụ, chè hạt… Hầu như người ta không dùng từ trà để gọi trà xanh, trà tươi… Ngay cả tiếng rao xưa của những người bán nước rong ngoài bến xe bến tàu cũng là: “Ai chè tươi nước vối đây! Nước vối nóng chè tươi nào!” Thậm chí, các bà thu mua đồng nát vỏ chai cũng rao: “Ai đồng nát chai chè bán đây!” “Chai chè” là thứ chai đựng chè làm bằng thủy tinh đục nom như sứ, có màu trắng, dùng để đựng trà do những lái buôn người Hoa bán tại các đô thị lớn của nước ta từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước.  

Vậy có thể coi nước chè, chè xanh, chè móc câu, chè nụ, chè khô, chè tươi, chè đường… đều là những tên gọi dân gian để chỉ cây chè và các loại đồ uống có gốc từ cây chè.    

Trà là gì?

Trà cũng là cách gọi một số đồ uống được chế biến từ cây chè. Nhưng lại có những loại đồ uống tuy gọi là trà nhưng thành phần không phải từ cây chè mà từ lá, thân và cả quả, hạt của các loại thực vật khác, một ví dụ phổ biến là “Bát bảo lường xà” (trà pha chế từ 8 loại dược thảo quý).

Người Việt cũng có những kiểu uống tương tự vậy, chẳng hạn nước lá vối, nụ vối hay nước pha ra từ một vài loại cây rừng khác. Tuy nhiên, dân ta không gọi những đồ uống này là “trà” mà mỗi thứ có một tên riêng của nó.

Từ “trà” trong tiếng Việt có hai nghĩa như vậy, song nghĩa phổ biến là được dùng trong những kiểu uống, cách chế biến chè cầu kỳ sang trọng. Trà là lối gọi của người Hoa. Trà mạn (loại trà chế biến theo lối lên men của vùng Mạn Hảo, Vân Nam, Trung Quốc), trà sen, trà cúc, trà ngâu, rồi đến các dụng cụ chế biến như ấm trà, bình trà, chén trà, bàn trà, hay các nghi lễ như trà đạo, tiệc trà, trà đàm…; những từ ấy có liên quan đến một văn hóa ẩm thực sang trọng cầu kỳ. Trong dân gian không ai dùng từ chè đạo, tiệc chè, chè đàm cả…

Quan hệ giữa chè và trà

Hai từ chè và trà đã thể hiện sự giao lưu văn hóa giữa những văn hóa chế biến và thưởng thức sản phẩm từ cây chè (Camellia sinensis) với những phong cách và phong tục khác nhau. Những giao lưu ấy khiến cho nghệ thuật uống chè/ trà của người Việt Nam ta vừa gần gũi vừa sang trọng, vừa bình dân lại vừa đài các.

Vũ Thế Long (trích trong Người Hà Nội, chuyện ăn chuyện uống một thời)