Ở Việt Nam có những góc nhìn rất khác nhau về việc học tiếng Trung Quốc liên quan đến các yếu tố văn hóa, lịch sử.

Lựa chọn học tiếng Trung Quốc là điều hoàn toàn bình thường, vì học được một ngoại ngữ mới là có thêm một cách tư duy khác ngoài cách quen thuộc theo tiếng mẹ đẻ, đồng thời ai thành thạo thêm một ngoại ngữ thì cơ hội việc làm cũng lớn hơn, có được nhiều kiến thức, nhiều thông tin hơn, nhất là với thứ ngôn ngữ phổ biến như tiếng Trung Quốc (chỉ xếp sau Anh văn).Tuy nhiên, riêng ở Việt Nam có những góc nhìn rất khác nhau về việc học tiếng Trung Quốc liên quan đến các yếu tố văn hóa, lịch sử. Đại loại như gần đây có những ý kiến “cần dạy chữ Hán trong trường phổ thông”, “cần dạy chữ Hán để giữ sự trong sáng của tiếng Việt”, “Dạy chữ Hán thay tiếng Anh..”, (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/day-chu-han-thay-tieng-anh-vi-nhung-le-sau-324496.html) hay đề án dạy tiếng Trung là ngoại ngữ thứ nhất dạy từ lớp 3 của Bộ GD&ĐT (http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/tieng-trung-thanh-ngoai-ngu-thu-nhat-bo-gd-dt-len-tieng-3319332/)… Những vấn đề này đã và đang gây nên những cuộc tranh luận nảy lửa. Một điều thú vị là chỉ riêng ở Việt Nam, chỗ thì nói là chữ Hán (Hán văn?, Hán ngữ?), chỗ thì nói là tiếng Trung (Trung văn). Người ngoài cuộc trố mắt hỏi “Hán văn và Trung văn là hai hay là một?”

Hán ngữ và tiếng Trung Quốc

Khi ai đó hỏi người Trung Quốc nói tiếng gì, tất nhiên câu trả lời là họ nói tiếng Trung Quốc. Thực ra, người Trung Quốc sẽ không trả lời như vậy. Họ sẽ trả lời hoặc là tôi nói tiếng Mandarin (tức tiếng Quan thoại hay tiếng Bắc Kinh), hoặc là tiếng Quảng Đông-Cantonese, tiếng Hakka (Khách gia-Hẹ), tiếng Hokkien (Phúc Kiến)… Đưa cho họ một tờ báo, xem thì ai cũng hiểu nội dung, nhưng đọc thành tiếng thì chẳng ai hiểu ai cả, khi nói chuyện với nhau cũng vậy, chẳng ai hiểu ai. Nhưng khi đưa cho họ một quyển sách Trung Hoa cổ, ví dụ như Hán Thư, Lã thị Xuân Thu… thì họ đọc được, nhưng cũng chẳng hiểu được mấy tí, vì sách cổ Trung Hoa viết bằng Văn ngôn, khác xa với tiếng Trung hiện đại, muốn hiểu phải có chuyên gia Hán ngữ phiên dịch ra văn viết thông thường, gọi là Bạch thoại. Có thể nói Trung Quốc có một chữ viết thống nhất là chữ Hán, có một ngữ văn thống nhất là Trung văn ngày nay và Văn ngôn – Hán ngữ ngày xưa, nhưng Trung văn với Văn ngôn không giống nhau, còn tiếng nói thì xưa và nay đều không thống nhất.

Để hiểu rõ chuyện này, tốt nhất, hãy nghe người Trung Quốc nói gì về ngôn ngữ của họ. Dưới đây chúng tôi chuyển ngữ những phần chủ yếu một bài thuyết giảng phổ thông về vấn đề này của học giả Viên Đằng Phi 袁腾飞, Giáo sư Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Thủ đô Bắc Kinh đăng trên Nam phương bộ thị báo南方都市报 (www.nddaily.com 南都网). Trong bài viết này, ông cũng lý giải về nguồn gốc lịch sử dẫn tới nhược điểm “nhất tự đa nghĩa” (cùng một từ có nhiều nghĩa dẫn tới mơ hồ và khó khăn trong diễn đạt, một biểu hiện của sự lạc hậu, thiếu thốn từ vựng trong ngôn ngữ) của tiếng Trung Quốc hiện đại:

(…)

Ngôn ngữ quan phương hiện tại (Quan thoại), được gọi là phương ngữ miền Bắc, là một ngôn ngữ đã bị Hồ hóa trong quá trình lịch sử, tính ưu mỹ của Hán ngữ đã hỗn giao với sự thô sơ của ngôn ngữ các rợ Hồ làm cho Hán ngữ trở nên thô thiển, đơn sơ, ngoại trừ việc còn giữ được cơ sở kết cấu ngữ pháp (chủ vị tân) của ngữ hệ Hán-Tạng ra, thì Hán ngữ về cơ bản đã bị đánh gục tơi tả, cuối cùng bị Hồ hóa theo ngữ hệ Altai, là loại ngôn ngữ địa phương mà về tính chuẩn xác, tính thực dụng thì lạc hậu hơn nhiều so với các phương ngữ miền Nam (…) mà đại diện là Cantonese (tiếng Quảng Đông).

Từ cuối nhà Đường trở đi, phía Bắc bị cai trị lâu dài bởi Khiết Đan, Nữ Chân (Mãn), Mông Cổ v.v. (thuộc ngữ hệ Altai là chủ yếu) do đó chắc chắn là phương ngữ phía Bắc khó mà tránh khỏi bị Altai hóa, nên mất đi hầu hết những đặc điểm vốn có trong Hán ngữ, đồng thời bị pha tạp một số khẩu âm (giọng) ngoại tộc. Tỷ như, đại bộ phận các giọng địa phương của Hán ngữ đều có thể phân biệt hầu hết các âm gió-nổ (尖团音Tip group tone) trong khi các ngữ thanh phương Bắc không thể phân biệt được.

Đa số Hán ngữ địa phương đều phân biệt nhập thanh (入声) với phi nhập thanh (非入声). Tiếng phương Bắc không phân biệt được. Tiếng phương Bắc chỉ có bốn âm giai điệu (Tone): Âm bình 阴平, Dương bình 阳平, Âm thượng 阴上, Âm khứ阴去。

Còn Hán ngữ lại phân thành tám âm giai điệu: Âm bình 阴平, Dương bình 阳平, Âm thượng 阴上, Dương thượng 阳上, Âm khứ 阴去, Dương khứ 阳去, Âm nhập 阴入, Dương nhập 阳入.

Các phương ngữ miền Nam, trừ tiếng Việt Quảng Đông 粤语 ra, đều ít nhiều có hiện tượng mất bớt âm giai điệu, nhưng số âm giai điệu còn lại đều nhiều hơn phương Bắc, ít nhất là còn từ sáu âm giai điệu trở lên. Và tiếng Việt Quảng Đông không chỉ bảo tồn tám âm giai điệu, mà còn thêm vào giữa Dương nhập và Âm nhập một âm giai điệu nữa là Trung nhập, thành ra tiếng Việt Quảng có đến chín âm giai điệu.

(…)

Ngữ hệ Altai được đặc trưng bởi ít ngữ tố, đa âm tiết, ví dụ đặc biệt là Nhật Bản ngữ. Phương Bắc, so với phương Nam, cũng hiện rõ đặc điểm này, do đó mà có khó khăn lớn khi biểu đat. Tỷ như dùng tiếng phổ thông khi giảng giải có dính dáng chút ít học thuật, chỉ dùng lời nói (khẩu ngữ) không thôi là không đủ, bắt buộc phải viết ra chữ (văn tự) thì mới hiểu được.

Bởi vì có quá ít âm tố 音素, dẫn đến hiện tượng đồng âm quá nhiều. Vì vậy, để làm giảm đồng âm, miền Bắc sẽ phải tăng số lượng các âm tiết của từ vựng. Ở phía Bắc, các từ vựng đơn âm tiết là cực kỳ ít, còn số từ vựng đa âm tiết thì cực lớn.

Các phương ngữ miền Nam thì ngược lại, vì có nhiều âm tố nên hiện tượng đồng âm ít hơn, số lượng từ vựng đơn âm rất phong phú, số từ vựng có hơn ba âm tiết rất ít, và chủ yếu là đến từ tiếng miền Bắc.
Vậy cho nên để thể hiện cùng một ý tứ trong một đoạn thoại, người miền Nam dùng ít từ hơn người Bắc, đương nhiên là hiệu suất ngôn ngữ cao hơn nhiều.

Ngôn ngữ Bắc chẳng hiểu sao lại bắt người ta đệm thanh âm “ěr -儿” vào, chẳng có lý do mà phải tăng thêm âm tiết “ěr”, khiến ngôn ngữ diễn đạt đã có hiệu suất không cao, nay lại càng bị kéo thấp xuống nữa.

Nếu bạn so sánh phim Hồng Kông bản tiếng Quảng Đông với bản tiếng Quan thoại, bạn sẽ phát hiện ra hiện tượng trong bản tiếng Quan thoại nhiều nội dung ngôn từ bị cắt gọt bớt. Lý do là tiếng Quảng Đông chỉ với mười từ âm tiết là đủ ý cho một đoạn thoại, còn tiếng Quan thoại phải sử dụng đến 15, 16 âm tiết mới đủ, cho nên để khớp lời với miệng, chỉ có cách cắt bớt nội dung.

Từng có người luận bàn rằng Hán ngữ là một loại ngôn ngữ lạc hậu, luận điểm có nhiều chỗ sai, nhưng cũng có rất nhiều điểm là hoàn toàn chính xác, tìm hiểu đến nơi đến chốn thì ra người đánh giá này chỉ dựa trên cơ sở của Hán ngữ hiện tại, lý luận sặc mùi sùng ngoại, thật đáng thương hại, anh ta dường như quên mất Hán ngữ cổ rồi!

Trong thực tế, chúng ta phải dám thừa nhận, ngôn ngữ đơn âm, nếu chỉ có bốn âm giai điệu mà lại bắt nó phải rạch ròi chuẩn xác thì thật nực cười. Hãy thử lấy phương ngữ Hakka là đại diện của miền Nam, nhờ số cách phát âm nhiều, rất dễ giải quyết hiện tượng câu đa nghĩa quá nhiều trong Hán ngữ hiện đại.

(…) Ngôn ngữ quyết định trình độ của nền văn minh của một dân tộc. Trung Quốc, là một trong bốn nền văn minh cổ đại, trên thực tế, kể từ khi khởi đầu thời đồ đá, nền văn minh Trung Hoa biến đổi theo thời gian ngày càng lạc hậu so với văn minh Tây phương. Khi ở Trung Quốc vào thời nhà Hạ nhà Thương, thì văn minh La Mã, Ai Cập, Lưỡng Hà đã đi trướcTrung Quốc 2.000-3.000 năm, và Trung Quốc, trong hoàn cảnh kín cổng cao tường, đã phải mất gần hai ngàn năm, cuối cùng đã bắt kịp, và sau đó vượt xa lên phía trước. Nhưng kể từ sau đời Tống thì lại nhanh chóng suy nhược, ở đây liên quan đến một hiện tượng rất quan trọng, đó là trước Tống thì chính quyền quốc gia dựa trên ngôn ngữ chính thức (quan phương ngữ ngôn) là Hán ngữ, ưu mỹ, chuẩn xác, còn sau thời Tống thì ngôn ngữ chính thức của quyền lực nhà nước lại là ngữ ngôn phương Bắc (…) Các Trạng nguyên thời Đường, Tống, Nam Bắc triều về cơ bản là tương đồng, từ Tống về sau thì bị phương Nam lũng đoạn, thời cận đại, phương Nam phát triển cao hơn Bắc, Bắc phát triển cao hơn Tây Bắc, còn Đông Bắc trở thành một đỉnh cao vì thời kỳ đầu công nghiệp nặng tập trung ở mảnh đất này, được sự trợ giúp của nhà nước, thế mà cũng vẫn không thể sánh nổi với phương Nam.

(…) Âm phương Bắc có rất nhiều các loại âm mà phương Nam không có như âm ěr (“ㄦˇ,hậu tị âm (âm sau mũi 后鼻音),hậu thiệt âm (âm sau lưỡi 后舌), là những âm khi nói cần phải vận động đầu lưỡi rất nhiều, phương nam ít loại âm này nên nói được rất nhanh. Mọi người hãy thử nói câu “骑车上公园儿” theo ngữ ngôn Bắc (Qí chē shàng gōngyuán er = Đi xe ra công viên) rồi so với cách nói miền Nam “骑 sang公园” xem nó chậm hơn bao nhiêu. Tốc độ của tư duy tỷ lệ thuận với tốc độ lời nói, nói nghĩ kiểu ậm à ậm ừ lai rai của người phương Bắc làm sao có thể cạnh tranh được với hiệu suất cao của người phương nam?

(…)

Tại sao một số học giả tin rằng tiếng Quảng Đông gần Hán ngữ cổ hơn cả? Thật ra đây không phải là nói chơi, bởi vì tiếng Quảng Đông đã bao hàm tất cả bốn thanh tám vần của Hán ngữ, một phần nhỏ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ các dân tộc Lĩnh Nam ý nói các dân tộc ở cực Nam Trung Hoa như xưa như, Âu Lạc, Nam Việt … trong tiếng Quảng Đông có một số lượng lớn các từ bế âm tiết, âm đọc phụ âm nguyên âm tương đương nhau, có hoặc không có bế âm tiết tạo ra khác biệt rất lớn. Tỷ dụ hai chữ Đại 大 và Đạt 达 trong tiếng Quan thoại chỉ đọc khác nhau ở âm vận (dấu thanh điệu) “dà và dá” nhưng trong cách phát âm tiếng Quảng Đông chữ đầu là âm tiết mở (khai âm), chữ sau là âm tiết đóng (bế âm). Chữ đầu đọc là “dai”, chữ sau đọc là “dat” (chữ t là ký hiệu biểu thị tác dụng đóng của âm tiết thứ hai, không phát thành âm). Tiếng Quảng Đông không có âm uốn lưỡi, cũng giống như Hán ngữ cổ vậy. Nhìn ra ngoài Trung Quốc xem hai nước Việt Nam và Hàn Quốc là những nước chịu ảnh hưởng của Hán ngữ cổ, tuy rằng họ có bản ngữ dân tộc riêng, nhưng khi họ đọc chữ Hán (Hán tự thỉnh thoảng dùng để biểu ý khi ghi chép sang bản ngữ dân tộc của họ), thì thực là rất giống tiếng Quảng Đông.

Ví dụ, tất cả chúng ta đều biết rằng thương hiệu Hàn Quốc “三星 Tam Tinh-Ba sao) thì hai chữ Hán đó Hàn Quốc đọc là “Samsung”, còn tiếng Việt (tam tinh) và tiếng Quảng Đông (saam sing) đọc hai chữ này gần giống nhau (…)

Sự phân hóa của Hán ngữ bắt đầu lúc nào?

Thời Mạt Đường Ngũ Đại, dân thiểu số lại gây vó ngựa sa trường, Bắc Tống chỉ lo giữ cho được đất gốc của Trung Quốc, còn Yên Vân thập lục châu (16 vùng thuộc Bắc Kinh Thiên Tân và bắc phần Sơn Tây Hà Bắc ngày nay) rơi vào tay Khiết Đan, cũng là lúc bắt đầu thời Hán Hóa Khiết Đan. Khiết Đan thuộc chi ngôn ngữ Altai-Mông Cổ (một phiên bản cổ của chi ngôn ngữ Altai -Tungus), khác với mười sáu nhóm nhỏ ngôn ngữ của rợ Hồ. Vùng đất Hán cũ trước khi bị người Khiết Đan chiếm vốn đã có một lịch sử văn minh, cho nên để gìn giữ chế độ Khiết Đan cũ, họ đã cố phân chia ra hai vùng Khiết Đan và Hán riêng biệt để cai trị. Họ lấy ngôn ngữ dân tộc làm ngôn ngữ chính thức của đế quốc, có văn tự riêng, tuy vậy thì văn hóa dần dần cũng bị Hán đồng hóa, dù dưới sự cai trị lưỡng chế, nhưng ngôn ngữ không phải là chuyện của riêng ai, theo chính trị thâm nhập mạnh mẽ vào Bắc Hán ngữ, bắt đầu làm cho cách phát âm của Hán ngữ pha giọng Altai từ đấy.

Vả lại văn tự Hán ngữ thì tốt cho việc biểu đạt mà không đòi hỏi cùng một khẩu ngữ, nên chi Hán ngữ có sức mạnh lớn đồng hóa các tộc khác, không cần tác động lên văn tự của ngôn ngữ Khiết Đan có vị thế chính trị cao hơn. Mặc dù người Khiết Đan đọc chữ Hán với âm khác với người Hán, nhưng về văn tự thì đều hiểu như nhau, nên sự phát âm như nhau là không bắt buộc.

Tôi đoán từ thời gian này trở đi, khi Bắc Kinh đã trở thành lãnh thổ phía Nam của nhà Liêu, ngôn ngữ nói của Trung Quốc vì phục tùng tầng lớp cai trị của đế chế Đại Liêu nên bắt đầu quá trình Hán ngữ phía Bắc biến hóa theo phát âm của kiểu Altai. Âm uốn lưỡi (卷舌音-quyển thiệt âm retroflex) (bao gồm cả âm bật lưỡi 弹舌音-Đạn thiệt âm- Tongue sound) cực nhiều trong ngữ hệ Altai, ở đây, từ phía Bắc của Bắc Trung Quốc, ngữ âm Altai bắt đầu thâm nhập vào Hán ngữ. Kim diệt Liêu, chia đôi thiên hạ, nửa theo chế độ của nhà Kim, người Hán thiên di về Nam, Hán ngữ Hoa Bắc nhận thêm kẻ xâm lược mới: ngữ hệ Altai-Tongus, bắt đầu thời kỳ âm cuốn lưỡi gia tăng mạnh, lượng bế âm mất dần.

(…) Nhà Tống nam di, sau khi định đô ở Lâm An, ngôn ngữ của tầng lớp quan liêu quý tộc bị ảnh hưởng bởi phương ngữ Hán Ngô Việt vốn có nguồn gốc Hán Tạng đã tồn tại trước thời Xuân Thu, so với Hán ngữ thời Nam Bắc triều thì đã phân hóa rõ rệt. Hán ngữ Hoa Bắc đã bị Tongus hóa, nhưng vùng miền núi có thể là biệt lệ (bằng chứng cho thấy rằng nay vẫn còn có những ngôi làng ở khu vực miền núi ở Sơn Tây còn giữ được thanh nhập của Hán ngữ), còn khẩu ngữ của hoàng thân quốc thích và quan lại triều Nam Tống thì đã chuyển đổi dần theo giọng nói của Ngô Việt. (Sau 1.500 năm lịch sử, vốn dĩ đã thông dụng Hán ngữ, muốn đồng hóa họ e cũng khó khăn), và phía Nam của dãy Nam Lĩnh, vì núi non cản trở, nên ở đây Hán ngữ gốc có từ thời Tần Thủy Hoàng ít bị thay đổi. Loại Hán ngữ phá cách từ phương bắc theo vó ngựa xâm lược của dân du mục, khi đến được Giang Nam, Hoa Nam vượt qua bao nhiêu núi đồi cách trở nên ảnh hưởng đã yếu đi nhiều, chưa kể đến hàng rào cản là dãy Lĩnh Nam.

Đế quốc Mông Cổ chiếm nước Kim, một lần nữa Hán ngữ Hoa Bắc lại nhận thêm kẻ xâm nhập với khẩu ngữ mới (người Mông Cổ giết hại 90% dân số sống ở Bắc Trung Quốc, và phần còn lại phải chịu tuân phục). Lần này kẻ thống trị Hoa Bắc lại nói tiếng thuộc chi ngữ hệ Altai-Mông Cổ. Ai có hứng thú xem lại lịch sử nhà Nguyên nên biết rằng sự cưỡng bức chính trị thời này là đặc biệt kinh khủng. Các quan chức người Hán ai mà không tập theo tiếng Mông Cổ thì không thể yên ổn được (…)

Lúc này, trải qua sự xâm nhập và ảnh hưởng của chi ngữ ngôn Altai-Mông Cổ lẫn chi Altai-Tongus vào Hoa Bắc, đầu tiên tại kinh đô Đại Đô (tức Bắc Kinh) của nhà Nguyên đã hình thành nên tiếng Nguyên Đại Đô (tiếng Bắc Kinh), đó chính là thủy tổ của tiếng Phổ thông ngày nay.

Nhà Minh lật đổ sự thống trị thực dân Mông Cổ, lập Kinh Đô ở Nam Kinh, nhưng rồi thân vương mạnh nhất là Yên Vương Chu Lệ ở Bắc Kinh thoán đoạt ngôi vua, lại quay về Bắc Kinh đóng kinh đô, giữ Nam Kinh làm kinh đô phụ (Bồi Đô-陪都), dẫn tới số phận Hán ngữ Hoa Bắc bị Hồ hóa là điều không thể thay đổi. Cuối cùng thì nhà Minh cũng xác định tiếng nói của Đại Đô là tiếng nói chính thức của nhà nước. Sau đó, các vùng phụ thuộc Minh, các sắc dân Mãn Châu thuộc chi Tongus, nơi đã từng khởi binh chinh phục Trung Hoa, đều bị Hán hóa hoàn toàn, về văn hóa thì bị ảnh hưởng bởi Trung Hoa, nhưng tiếng nói của vùng Hoa bắc cũng bị pha tạp, cuối cùng hình thành nên cơ sở cho ngôn ngữ hiện tại là tiếng phổ thông Quan thoại (mandarin) – kỳ thực thì tên gọi này đối với người Hán là một đại sỉ nhục, vì Mandarin chính là phiên âm của”满大人- Mãn đại nhân” tức là “tiếng nói của các quan Mãn Châu” (chữ Quan thoại cũng từ đó mà ra).

Hán tự, Hán văn và Trung văn – học sinh cần học gì?

Sau khi đọc đoạn viết của học giả Viên Đằng Phi, chắc ai cũng thấy rõ là chuyện học Hán tự, Hán văn và Trung văn là hoàn toàn khác nhau

Đối với người Trung Quốc, phương Bắc, phương Nam… thì ngoài phát âm tiếng mẹ đẻ của họ ra, họ chỉ phải học tiếng Quan thoại mà Bắc Kinh gọi là tiếng Phổ thông, Đài Loan gọi là Quốc ngữ… như vậy họ cũng đồng thời học được Hán tự (chữ Hán), còn Hán văn (cổ) dưới dạng Văn ngôn là ngữ văn của các chuyên gia, người dân Trung Hoa chỉ cần dùng Bạch thoại là dạng ngữ văn cho mọi người. Tiếng Trung Quốc (sau đây gọi là Trung văn) hiểu như vậy chính là Chữ Hán + Ngữ văn Bạch thoại + phát âm Bắc Kinh. Mọi người không phải là người Trung Hoa, muốn học tiếng Trung Quốc thì chỉ cần học chừng đó là đủ.

Nhưng nếu đề án ngoại ngữ của Bộ GD&ĐT chỉ học Trung văn mà không Hán ngữ cổ thì liệu có giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt không? Chắc chắn là không. Vì rõ ràng tiếng Việt liên quan chặt chẽ với Hán ngữ cổ chứ không phải Trung văn ngày nay. Còn nói rằng sẽ tạo cho lớp trẻ cơ hội bảo lưu và phát huy một kho di sản văn hóa khổng lồ của dân tộc trong quá khứ thì lại càng khó thuyết phục. Người Trung Hoa bình thường cũng không hiểu nổi các văn sách Hán văn cổ của cha ông họ, vẫn cần phải có chuyên gia phiên giải, bình chú, thì làm sao mà một học sinh Viêt Nam lại có thể hiểu được văn sách, bia, ký… cổ bằng Hán văn (hoặc chữ Nôm) của các nhà Nho Việt Nam viết ngày trước. Không thể nói vì Nhật Bản còn buộc học sinh phải học 2.000 chữ Hán, tại sao Việt Nam không. Nên nhớ là Nhật Bản vẫn dùng đến quá nửa chữ Hán nguyên mẫu trong văn tự của họ, không biết chữ Hán làm sao viết, đọc được tiếng Nhật. Còn ở chữ quốc ngữ Việt Nam thì không cần điều đó.

Vấn đề ở Việt Nam hiện nay liên quan đến sự tách rời của Hán ngữ với Trung văn như học giả Viên Đằng Phi đã phân tích ở trên. Bộ GD&ĐT muốn chọn Trung văn như một trong các ngoại ngữ, còn các nhà ngôn ngữ học lại muốn đưa vào nhà trường Hán ngữ (Hán tự + Hán văn cổ) như một môn học bắt buộc. Mà Hán ngữ này là Hán ngữ Việt Nam (còn gọi là Hán Việt), nói nôm na là chữ Nho, không tồn tại và không ai hiểu ngay ở Trung Hoa, trừ các chuyên gia ngôn ngữ chuyên về Hán ngữ cổ, mà họ cũng chỉ hiểu khi nhìn đọc trên văn bản, không hiểu khi nghe đọc.

Nên dạy và học Trung văn ở Việt Nam như thế nào?

Đứng trên góc nhìn khoa học, dù khen hay chê, dù yêu hay ghét thì Trung văn vẫn là một ngoại ngữ phổ biến và sẽ ngày càng phổ biến. Việc dạy và học Trung văn như một ngoại ngữ là có ích cho người học và cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy nên khuyến khích cho những người yêu thích và có tầm nhìn lựa chọn ngoại ngữ này, còn những người vì những lý do riêng không yêu thích thì cũng không nên bài xích. Tuy nhiên, không nên chỉ dạy Trung văn cho người Việt giống như dạy cho người Nga, người Mỹ… Nên kết hợp dạy chữ Trung Quốc ngoài phát âm theo pinyin (Bính âm) cần kèm theo âm Hán Việt nữa. Ngoài ra số tiền dự tính dùng cho việc đưa Hán Việt vào trường phổ thông (nếu có) nên giao phần lớn cho các nhà Hán Nôm số hóa, dịch và chú giải toàn bộ kho tàng văn hóa Hán Nôm của nước ta, (thực ra không quá lớn, đến mức không làm nổi trong một vài năm), và cho phép mọi người tiếp cận miễn phí kho tàng văn hóa đó. Một phần tiền nên dành cho việc đào tạo thêm Hán Việt (chữ Nho) cho các thầy cô giáo dạy Trung văn. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn đủ nhân lực cho việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng như kết nối thế hệ trẻ với kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc.

Theo TRẦN GIA NINH / TẠP CHÍ TIA SÁNG