Nguyễn Thanh-Nhà thơ Truy Phong hay T.P (1925-2005) là bút
danh của Dương Tấn Huấn, người tỉnh Vĩnh Long. Ông là nhà thơ kháng chiến hai
thời kỳ, thuộc thế hệ các văn nghệ sĩ : Kiên Giang (1920-2014), Sơn Nam
(1926-2008), Nguyễn Bính (1918-1966), Viễn Phương (1928-2005), … từng đi bộ đội
và hoạt động văn nghệ ở Quân khu 9.
Truy Phong đạt giải nhì về Văn của Khu 9 với tập “Mấy phóng
sự về kháng chiến”. Năm 1948, nhà thơ tiếp tục đạt giải nhất về Thơ với thi tập
“Dân quê kháng chiến” và giải nhất với tập thơ “Lòng quê” (sau sửa lại “Tấm
lòng quê”) trong cuộc thi Thơ ở Nam bộ, cùng đợt thi với Nguyễn Bính đạt giải
nhì với tập thơ “Sóng biển cỏ” và bài thơ “Nô-Men” (giải nhì Khu 9). Thời gian
ra thành hoạt động hợp pháp, Truy Phong dạy học tư, liên kết với Sơn Nam, Kiên
Giang, …và đăng thơ trên các báo tiến bộ ở Sài Gòn như : Tiến thủ, Tin văn,
Bông lúa, Mã thượng, Thần Chung, Tiếng nói dân tộc, Tin sáng… Tác phẩm của Truy
Phong gồm có thi tập: Một thế kỷ – mấy vần thơ (1970, NXB Chim Việt), Thái bình
trả lại (1971 NXB Chim Việt), Mặt trời lên (1975), Truy Phong và Một thế kỷ – mấy
vần thơ (2001,NXB Trẻ), Thơ Truy Phong (2004, Hội VHNT tỉnh Vĩnh Long)… Nhà thơ
Truy Phong được các nhà phê bình văn học nhắc đến trong : Văn học Việt Nam nơi
miền đất mới (tập 3- Nguyễn Q. Thắng), Thi ca Việt Nam hiện đại (Trần Tuấn Kiệt),
Thi ca bình dân Việt Nam (Nguyễn Tấn Long và Phan Canh) và nhiều bài viết trên
các báo. Nhà thơ Truy Phong mất ngày 9-5-2005 tại quê nhà, trong vòng tay đầm ấm
của người vợ hiền chung thủy Lê Thị Công cùng niềm tiếc thương của bằng hữu và
công cbúng văn nghệ.
Truy Phong (nghĩa là : Đi tìm cái đẹp) tên thật là Dương Tấn
Huấn sinh ra tại cù lao Dài, huyện Vũng Liêm, nằm trên sông Tiền – một ốc đảo
cheo leo giữa bốn bề sông nước, cách khá xa thị trấn Vĩnh Long. Xuất thân từ một
gia đình có truyền thống yêu nước và văn chương, cha là Dương Mậu Sum nguyên là
Chủ tịch Ủy Ban Kháng chiến xã Thạnh Phú, anh ruột là nhà thơ Mộng Hồn Quyên.
Thuở nhỏ, cậu bé Huấn ít may mắn như các bạn, không được học tập nhiều ở nhà
trường. Học hết bậc Tiểu học ở trường huyện Càng Long và đậu bằng Tiểu học Pháp
(Certificat d’étude primaire complémentaire), Huấn lên Sa Đéc học trường tư
không bao lâu rồi nghỉ ở nhà mày mò tự học thêm. Dương Tấn Huấn sớm tỏ ra có
năng khiếu về văn nghệ. Năm 16 tuổi, ông đã biết làm thơ, hát cải lương và chơi
hát bội với thanh niên trong xóm. Cụ thể là biết đàn tranh và đàn được bản Vọng
cổ. Đầu tiên, ông bắt đầu đi làm việc ở tòa báo Tân Tiến tại Sa Đéc cho đến
Cách mạng Tháng Tám (năm 20 tuổi). Truy Phong tham gia kháng chiến chống Pháp tại
Vĩnh Long. Vừa đánh giặc, vừa sáng tác và thường xuyên liên hệ khi làm báo Tiếng
súng kháng địch với các văn nghệ sĩ yêu nước ở quân khu 9 như Sơn Nam, Kiên
Giang…cho đến lúc ra thành dạy học. Từ năm 1953, Truy Phong dạy ở các trương
công, tư tại Trà Vinh, Vĩnh Long và vẫn làm thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn.
Thơ Truy Phong có nội dung tiến bộ, thường mang tính thời sự, lịch sử như bài
“Một thế kỷ – mấy vần thơ”, một bài thơ đã làm dậy sóng văn đàn, đăng trên nhật
báo Tiến Thủ (Sài Gòn) ngày 27.04.1956 do ký giả Việt Tha (Lê Văn Thử) làm chủ
bút. Những người hay đọc báo, quan tâm đến thời sự thuộc thế hệ 60-70 tuổi
không bao giờ quên được sự kiện báo chí và dư luận đặc biệt liên quan đến bài
thơ ấn tượng của Truy Phong lúc bấy giờ. Người ta còn nhớ như in giữa lòng
thành phố tạm chiếm Sài Gòn những sự việc diễn ra như một đoạn phim đầy kịch
tính có liên quan đến một bài thơ của T. P. Ngày hôm ấy, báo Tiến Thủ lần đầu
tiên đăng bài thơ “Một thế kỷ – mấy vần thơ” (trên 100 câu) của một tác giả xa
lạ ký tên T. P. Sáng sớm ngày 27.04.1956, khi báo vừa phát hành thì hàng chục
cú điện thoại dồn dập gọi tới, tra hỏi hăm dọa, đủ điều. Ngay sau đó, nhân viên
của chính quyền đương thời, ồ ạt ập ngay vào tòa soạn tịch thu sạch sành sanh hết
báo, một đám bặm trợn được thuê đến hùng hổ bao vây, lục soát, đập phá tòa soạn.
Bọn Khuyển Ưng còn đi tìm Chủ nhiệm báo Lê Văn Thử để “làm thịt”. Rất may, ông
chủ báo đã nhanh trí kịp chạy lánh nạn vào Tòa Đại sứ Anh gần đó một thời gian.
Ngay sau đó, báo Tiến Thủ bị đóng cửa. Bởi lẽ, báo Tiến Thủ của Việt Tha đã
đăng bài thơ của Truy Phong một cách trang trọng như thách thức trên trang nhất
của tờ báo với cái “tít” màu đỏ au thật hoành tráng, hấp dẫn, choán hết bên
trên bề ngang rộng lớn của tờ báo. Hàng chữ “Một thế kỷ- mấy vần thơ” nổi bật hẳn
lên với mục đích làm cho độc giả chú ý như một tin thắng lợi lớn lao. 1/3 bài
thơ (gần 50 câu) cùng đăng ngay bên phải, dưới cái “tít” đường bệ ấy (chưa từng
có tờ báo nào ở Sài Gòn đăng thơ một cách đặc biệt ưu ái như vậy). Dù vậy, sau
sự kiện văn hóa báo chí gây nhiều dư luận này, từ tháng 4/1956 đến tháng
4/1975, bài thơ “Một thế kỷ- mấy vần thơ”của Truy Phong vẫn được đăng lại hằng
chục lần trên các báo và tạp chí ở Sài Gòn : Mã Thượng, Đuốc Nhà Nam, Thần
Chung, Tin Sáng, Dân Chủ Mới, Tiểu thuyết Thư Năm…Tạp chí “Sélection du
Reader’s Digest” năm 1957 cũng trích dịch lại một đoạn bài thơ này. Tại miền
Nam, các trường Đại học Văn khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Luật khoa, Đại học Vạn
Hạnh, Đại học Đà Lạt cũng tổ chức giới thiệu bài thơ mang tính thời sự, chính
trị đặc biệt này trong những đêm sinh hoạt Thơ Nhạc tại trường. Trên mục Sinh
hoạt văn nghệ tạp chí Văn của Trần Phong Giao ra ngày 14/04/1974 có đăng tin
trong chương trình Thơ Nhạc chủ đề “Giữ thơm quê mẹ” tại quán cà phê nhạc tại
Đà Lạt, cùng với nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995), Văn Giảng (1924-2013), Đỗ Nhuận
(1922-1991)… các nhà thơ được giới thiệu đến có Quang Dũng (1921-1988), Hoàng Cầm
(1922-1010), Truy Phong (1925-2005)…
Chưa hết, “Một thế kỷ- mấy vần thơ”của Truy Phong còn âm thầm,
len lỏi đi vào các nhà tù từ Sài Gòn đến Côn Đảo. Ông Lê Hồng Tư, một cựu sinh
viên yêu nước thời Mỹ Diệm, một chiến sĩ tử tù về từ “địa ngục trần gian”, kể lại
: “Một người đọc, mười người đọc, rồi hàng trăm, hàng ngàn người đọc. Không
riêng gì sinh viên, học sinh, trí thức mà cả công luận ở Sài Gòn và các thành
thị miền Nam đều phấn khởi đón nhận bài thơ…Chúng tôi : tất cả anh em, cán bộ,
chiến sĩ đều coi bài thơ như một thứ vũ khí đấu tranh sắc bén. Chúng tôi dàn dựng
thành một hoạt cảnh thơ rồi kéo nhau ra miền Trung trình diễn…”. Kịch bản văn học
“Một thế kỷ- mấy vần thơ” được một cán bộ công vận ở Sài Gòn mang ra tận Côn Đảo
trình diễn cho công nhân xem. Nhắc lại việc khai sinh cho bài thơ đã gây nên hiện
tượng độc đáo trong văn chương tranh đấu Nam bộ này, ta hãy lắng nghe chính tác
giả bài thơ là Truy Phong cặn kẽ trần tình: “Trong nhóm anh em Văn nghệ Kháng
chiến Khu 8 thời chín năm chúng tôi, có người đi tập kết như nhà thơ Nguyễn
Bính, có người ở lại hoạt động hợp pháp như nhà thơ Kiên Giang, nhà văn Sơn
Nam…, riêng tôi về dạy học ở Trà Vinh. Khi viết xong bài “Một thế kỷ- mấy vần
thơ”, tôi nhờ em Điệp, một nữ sinh tin cẩn, có cha chạy xe đò Trà Vinh – Sài
Gòn, mang bài thơ trao tận tòa soạn báo Tiến Thủ, một tờ báo tiến bộ ở Sài Gòn
lúc ấy. Nếu ở Sài Gòn, tôi sẽ ký tên thật hoặc bút danh quen thuộc. Lỡ có sao,
anh em mình ở đó đông hơn có thể tiếp tay lo liệu. Nhưng ở tỉnh lẻ Trà Vinh,
tác giả có thể bị thủ tiêu một cách lặng lẽ !”. Do vậy, người ta đã hiểu rõ lý
do vì sao Truy Phong lại ký tên tắt tác giả bài thơ là T. P. Chúng ta cũng cần
nhớ lại thời điểm khai sinh ra bài thơ đã nổ ra chấn động dư luận báo chí và thời
sự tại Sài Gòn. Đó là không gian lịch sử chính trị của những năm 1955-1956 tại
miền Nam : thời kỳ nhân dân ta đòi thi hành Hiệp thương hai miền Nam-Bắc, theo
tinh thần Hiệp định Genève 1954.
Trên cơ sở đó, các cán bộ kháng chiến dựa vào thế hợp pháp
chính trị, công khai tuyên truyền, đấu tranh đòi hòa bình, thống nhất đất nước.
Trong vòng hai năm, quân đội viễn chinh Pháp phải rút hết khỏi Đông Dương -Việt
Nam nói riêng. Vào đầu năm 1956, Pháp hoàn tất cuộc rút quân ra khỏi đất nước
ta. Cảm hứng bùng phát trước thời điểm lịch sử nhạy cảm “tiễn chân quân đội
Pháp về nước”, Truy Phong sáng tác bài thơ 
“Một thế kỷ – mấy vần thơ”, với tâm thế vừa gián tiếp lên án thế lực ngoại
xâm vừa công khai cổ vũ, đề cao tinh thần yêu nước cao đẹp, truyền thống đuổi
giặc giữ nước hào hùng của dân tộc Việt Nam. Bài thơ mang phong cách một bản
trường ca hoành tráng với những giai điệu bi hùng trong lịch sử thi ca kháng
chiến.
Bản trường ca mở đầu bằng hai câu thất ngôn đầy lạc quan, mô
tả cảnh bình minh rạng rỡ chân trời sau chiến thắng Điện Biên lừng lẫy, báo hiệu
sự chấm dứt những đêm dài tối tăm nô lệ gần trăm năm của dân tộc Việt Nam :
“Ánh hồng chói rạng chân trời mới / Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi”. Như một đạo
diễn sân khấu giàu kinh nghiệm, Truy Phong đã khéo làm tương phản giữa hai tình
huống của người đưa tiễn vốn là nạn nhân ngày nào và kẻ ra đi trước kia mang bộ
mặt của thế lực thực dân thống trị. Thật mỉa mai với cảnh bại trận của những
anh lính viễn chinh Pháp, giờ đây, với cờ rũ và súng xếp, cúi đầu và lặng thinh
bước xuống tàu về nước trong tiếng kèn lệnh tức tưởi, nghẹn ngào, dưới bóng chiều
vàng vọt nơi nghĩa địa u minh: “Chiều nay / Kèn kêu tức tửi nghẹn lời / Tiếng
ngân xúc động dạ người viễn chinh / …trên nghĩa địa /  Có một đoàn tinh binh / Cờ rũ và súng xếp /
Cúi đầu và lặng thinh / Nghẹn ngào…” Nhà thơ làm nổi bật hình ảnh tiều tụy của
kẻ bại trận đã từng hùng hổ cướp bóc, chém giết một cách tàn ác người dân thuộc
địa, kéo dài cả trăm năm trên đất nước bị đô hộ: “Tay gươm, tay súng / Bước
nghinh, bước ngang / Anh bắn ! / Anh giết ! / Anh băm !  / Anh vằm ! ” Cảnh tù đày vô nhân đạo, đàn áp
không nương tay: “ Anh đày Bà Rá, Côn Nôn / Anh đọa Sơn La, Lao Bảo / Anh đoạt
hết cơm, hết áo / Anh giựt hết bạc hết vàng…”. Tác giả cảm thấy đau xót trước cảnh
tàn sát dã man, rùng rợn do quân giặc ngoại xâm gây ra : “Chặt đầu ông lão treo
hàng thịt / Mổ mật thanh niên / giữa chiến trường / Cối quết trẻ thơ văng nát
óc / Phanh thây sản phụ, đốt thành than.”. Nơi nào trên quê hương có bóng dáng
quân xâm lược là ở đó se diễn ra cảnh nhà tan cửa nát, cây cỏ điêu linh như nhà
thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu ()đã nói: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước / Đồng
Nai tranh ngói nhuộm màu mây ” (Chạy Tây).
Thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của tiền nhân “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân”(Bình Ngô Đại cáo-Nguyễn Trãi (180-1442), Truy Phong muốn quên đi
những tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù mà bày tỏ lòng khoan dung
: “Trăm năm chuyện cũ / Thôi mình bỏ qua”. Nhà thơ muốn kẻ thù xâm lược đừng
quên chân lý sáng ngời chính nghĩa của nhân loại : “Cái gì bạo ngược và phi
nghĩa / Là trái lòng dân, nghịch ý trời / Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ /
Không sao thắng được trái tim người”.
Kết thúc bản trường ca hùng tráng, Truy Phong bình tỉnh khẳng
định như một lời tuyên ngôn đanh thép để họ nhớ đến lòng yêu nước bất biến của
nhân dân ta muôn người như một, tinh thần bất khuất, chiến đấu ngoan cường, quyết
tâm sống chết đánh giặc để giữ nước: “Việt Nam nước của tôi / Già như trẻ / Gái
như trai / Chết thì chịu chết / Không cúi lòn ai / Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
/ Thì ‘giặc vào đây, chết ở đây’ ”. Nhà thơ không những cảnh báo cho thực dân
Pháp mà còn với bất cứ thế lực xâm lược nào có ý đồ muốn lao vào vết xe đỗ như
hiện thực vừa qua.
Bằng sự thiết kế nghệ thuật câu, chữ hợp tình hợp cảnh, bài
“Một thế kỷ – mấy vần thơ” trước hết được coi là một bài thơ mới dài như một
trường ca, có đủ tính cách biền ngẫu ở 
bài  văn tế và tính mộc mạc của thơ
ca dân gian. Câu thơ dài, ngắn tùy lúc, đôi khi có đối vế để diễn tả sát sao
theo từng ý thơ mỗi đoạn, hình thành một tiết tấu giai điệu sinh động thích
nghi, tạo nên một phong cách thơ Truy Phong rất đặc biệt – không nhầm lẫn được
với thi pháp của  bất cứ nhà thơ nào
khác. Nhà văn Sơn Nam nhận định về nghệ thuật “Một thế kỷ – mấy vần thơ”của
Truy Phong “là một trong những bài thơ đẹp nhứt của thế kỷ 20 này. Lời thơ hồn
nhiên nhưng sâu đậm, giản dị mà không tầm thường”. Ông Việt Tha, chủ nhiệm báo
Tiến Thủ viết : “Theo tôi, thơ như vậy mới là thơ, thơ của thời đại chúng ta”.
Tuần báo văn nghệ Khởi Hành (Sài Gòn) nhận xét về Truy Phong : Những người trẻ
hôm nay không quên ông, không quên một tác phẩm đáng lưu lại mãi mãi trong lòng
người dân Việt”. Thiếu Sơn (1908-1978), nhà phê bình có tên tuổi trong văn học
hiện đại từ thời tiến chiến, đã chân tình cảm nhận : “ Đọc Truy Phong, tôi càng
thương dân tộc, một dân tộc kháng chiến trường kỳ và đã thắng giặc Pháp sau bao
gian khổ và hy sinh…Truy Phong có lòng rộng rãi bao dong, tiêu biểu cho lòng
người dân Việt nhẫn nại trước trăm ngàn đau khổ nhưng vẫn sẵn lòng tha thứ cho
kẻ làm khổ mình. Nhất là khi chúng đã chịu thua mà xuống tàu về nước”. GS. Nhà
văn Nguyễn Q. Thắng coi sự khai sinh bài “Một thế kỷ – mấy vần thơ” của Truy
Phong như “ một thi thoại điển hình có một không hai trên thi đàn hiện đại và
ghi lại được một thời điểm lịch sử – Pháp rút quân khỏi Việt Nam – bi hùng của
dân tộc. Một áng văn chương sáng giá của văn học Việt Nam ”. – Bài thơ gây chấn
động văn đàn tại Sài Gòn của Truy Phong khiến dư luận Miền Tây nhớ lại chuyện
bài thơ Đường luật “Cây tre” của Phạm Thị Hồng Hạnh xảy ra sau đó hơn một năm
(1958). Bài thơ “Cây Tre” (và “Cái Diệm”) cũng đã làm cho dòng Hậu Giang một dạo
nối sóng . Tác giả bài thơ là một nữ sinh trẻ đẹp ở Tây Đô, học lớp Đệ Ngũ trường
trung học Phan Thanh Giản (có nhà ở bên bờ sông Cái Khế, cạnh chùa Ba Cô, ngang
chợ Mít Nài – An Nghiệp bây giờ). Nội dung chống chế độ Mỹ Diệm của bài thơ khiến
nữ tác giả học trò, giỏi văn chương Phạm Thị Hồng Hạnh bị đuổi khỏi trường, phải
lên học tư ở Sài Gòn *.
Nhận định chung về bài thơ trên, Nhà thơ Kiên Giang cùng thời
với tác giả, đã có lý khi phát biểu (trên nhật báo Tin Sáng) : “ Ông Truy Phong
là một thi sĩ có chân tài với hồn thơ nồng đậm tình yêu quê hương đất nước…
Truy Phong đã làm chấn động thi đàn năm 1956 với bài Một thế kỷ – mấy vần thơ.
Một thi phẩm mang giá trị vượt thế kỷ”. Tóm lại, có thể nói, sự xuất hiện của
thi phẩm “Một thế kỷ – mấy vần thơ ” của Truy Phong đã tạo nên một xì-căn-đan đặc
biệt trong xã hội thi ca kháng chiến Nam bộ. Bài thơ đậm tính thời sự, chính trị
của nhà thơ chiền sĩ Truy Phong như một tiếng chuông âm vang mạnh mẽ, cảnh báo
cho mọi tham vọng của thế lực ngoại xâm. Thi phẩm tác dụng như một chiếc lăng kính,
phản chiếu tinh thần đánh giặc giữ nước của nhân dân. Giá trị nhân văn độc đáo
của trường ca này là tác giả bài thơ đã bình tỉnh, khéo léo, mượn lời lẽ dịu
mát, lịch sự để nói lời từ giã với những anh lính thực dân Pháp bại trận xuống
tàu về nước, nhằm gián tiếp nhắc lại những tội ác tày trời của họ. Đồng thời,
nhà thơ Truy Phong như thay mặt đồng bào, khẳng định truyền thống yêu nước, ý
chí bảo vệ tổ quốc và quyết tâm đánh bại bất luận kẻ thù xâm lược nào của dân tộc
Việt Nam.

Nguồn: Báo Văn Nghệ