“Ti Nyang To Kyi Phug, các căn phòng nhtht đượxây ct kín đáo nhưng nó không hoàn toàn thiếu ánh sáng như nhiu người vn nghĩ. Trên nóc nhà có mt l hng đc ra đ ánh sáng có th lt vào bên trong, mt bàn th nh được đt trong góc phòng và đc bit hơn na là mchiếc t khá ln đng kinh đin cho các tu sĩ nhtht đc tng. V Lt Ma tr trì cho biết nhng căn phòng này không phi nơi đ trng pht hay giam hãm ai, mà là ch đ các tu sĩ có th thin đnh trong yên lng tuyt đi. Căn phòng khá rng đ ch cho v tu sĩ đi đng hoc c đng cho dãn gân ct. Mc dù vic tp khinh công chú trng vào quyn năng ý chí nhưng nó không có nghĩa là tu sĩ có th chnh mng vic gìn gi thân th cho khe mnh…”
Còn rất nhiều những điều khác tại Tây Tạng không giống như nhiều người vẫn nghĩ, có lẽ vì vậy mà Tây Tạng là địa danh nổi tiếng hàng đầu thế giới và có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với thế giới ngày nay như vậy? Phải chăng vùng đất này tượng trưng cho những gì cực kỳ huyền bí, rất khó lý giải và tập trung năng lượng mạnh nhất cũng như điều kiện và khả năng khai phá tâm linh tốt nhất trên thế giới?
Tây Tạng là một xứ biệt lập, nằm ở vị trí hiểm trở, gần như tách rời với thế giới bên ngoài, nơi đây duy trì một nền văn minh cổđại, khác xa với những nền văn minh mà chúng ta được biết đến. Với điều kiện thời tiết và địa lý đều rất khó khăn, không phải ai cũng có thể đến được Tây Tạng. Nhưng không một ai từng đặt chân vào Tây Tạng mà không chịu ảnh hưởng của nó, và không ai còn có thể chui rúc vào đời sống chật hẹp khi đã chứng kiến và tận hưởng sự bao la hùng vĩ của cuộc sống bên rặng Tuyết Sơn.
Đối với người Tây Tạng, mây có rất nhiều ý nghĩa huyền bí. Nhìn vào các bức họa Tây Tạng (thankas), gần như bức nào cũng thấy họ vẽ các đám mây màu sắc khác nhau. Mây tượng trưng cho sự sáng tạo vì nó có thể mang bất cứ hình thù gì. Mây trắng tượng trưng cho môi trường để sự sáng tạo có thể nẩy nở, phát sinh nhưng nó còn có nghĩa là đám mây Pháp (Dharma megba) mà từ đó chân lý được biểu lộ.
“Đường Mây Qua X Tuyết” (“The Way of the White Clouds”ghi lại những điều Anagarika Govinda chứng kiến trong thời gian du hành ở Tây Tạng. Hành trình của tác giả diễn ra vào khoảng thập niên 30 đến thập niên 50 của thế kỷ trước, trước thời kỳ diễn biến chính trị phức tạp dẫn đến sự sáp nhập vào lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như hiện nay. Thời điểm đó, một phần phía tây của Tây Tạng bị xem như nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền thuộc địa Anh nên việc tác giả đi từ Sri Lanka sang Ấn Độ rồi thâm nhập phía tây Tây Tạng (tất cả đều là thuộc địa của Anh), giấy tờ thông hành đều do người Anh kiểm soát. Về phần sau của hành trình, tác giả đi sâu vào phần phía đông Tây Tạng vốn thuộc sự quản lý của chính quyền Lạt Ma tại Lhasa nên lại phải xin cấp thêm giấy thông hành từ chính quyền này.
Trên thực tế, từ thời cổ đại cho đến tận lúc bấy giờ, Tây Tạng vốn chỉ được xem như một vùng đất bí ẩn khép kín, một mắt xích trên con đường tơ lụa huyền thoại nên dù đã nhiều lần bị xâm chiếm, các chính quyền đô hộ tạm thời đều dần dà “bỏ rơi” vùng đất này; do đó, nơi đây được đứng đầu bởi cố vấn tinh thần là các đức Lạt Ma mà cao nhất là Đạt Lai Lạt Ma. Từ góc nhìn của người phương Tây, Tây Tạng được xem như một phần của vương quốc Ấn Độ (vốn bao gồm cả các nước Pakistan, Nepal, Bhutan, Bangladesh,… ngày nay) do nơi đây chịu nhiều ảnh hưởng từ tín nguỡng và tôn giáo Ấn Độ hơn từ phía Trung Hoa.
Những diễn biến chính trị từ thập niên 50 của thế kỷ trước trở về sau này, hẳn nhiên ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến phong tục và đời sống tín ngưỡng của Tây Tạng. Song, nếu tìm hiểu và đặt tâm trí mình trở về với giai đoạn trước khi những biến đổi phức tạp này diễn ra, người đọc sẽ cảm nhận rõ nét hơn về cái “Tự do”, sự uyên thâm và tính nguyên thủy của Phật giáo Tây Tạng mà tác giả Anagarika Govinda và dịch giả Nguyên Phong muốn truyền tải.