Mô hình tổng quát về Đạo Mẫu của người Việt ở Việt Nam, gồm ba lớp kế tiếp và có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đó là: Nữ thần, Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ (1).
Vì đây là mô hình tổng quát, nên nó chưa chưá đựng được các sắc thái địa phương, do vậy cần có sự bổ sung cần thiết cho các dạng thờ Mẫu ở các vùng miền, ít nhất là với miền Trung Bộ và Nam Bộ.

DẠNG THỨC THỜ MẪU BẮC BỘ
Có thể nói mô hình tổng quát kể trên là mô hình kinh điển, mô hình đầy đủ nhất mà tục thờ Mẫu ở Bắc Bộ là đại diện. Đây cũng là mô hình có sự phát triển tuần tự và mang tính nội tại. Tất nhiên, ở lớp thờ Nữ thần mang tính nguyên sơ, bản địa và do vậy nó phổ cập rộng rãi trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Trong một số công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã có dịp đề cập tới và lý giải các căn nguyên kinh tế, xã hội của chúng (2). Lớp thờ Mẫu thần với các danh xưng, như Quốc Mẫu, Vương Mẫu hay Thánh Mẫu, thường là gắn với quá trình cung đình hoá, lịch sử hoá, như hiện tượng thờ Ỷ Lan Nguyên phi, Bà Chúa Kho, Mẹ Thánh Dóng, Tứ vị Thánh nương… Và, tất nhiên, lớp thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ là một hệ thống phát triển cao hơn, trên cơ sở thờ Nữ thần, Mẫu thần bản địa và tiếp nhận các ảnh hưởng về quan niệm vũ trụ luận và hệ thống thần linh của Đạo giáo Trung Hoa.
Mối quan hệ giữa ba lớp thờ Mẫu này là mối quan hệ hai chiều, một chiều theo hướng phát triển lịch sử, từ thờ Nữ thần, Mẫu thần đến Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tuy nhiên, theo chiều ngược lại, khi Mẫu Tam phủ, Tứ phủ định hình và phát triển, thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hoá tục thờ mẫu thần và nữ thần theo hướng sắp đặt hệ thống thần linh, nghi thức thờ cúng…Xu hướng này rất mạnh mẽ không chỉ đối với việc thờ Nữ thần hay Mẫu thần, mà ngay cả với các tín ngưỡng khác, thí dụ như với tục thờ Cá voi ở Bắc Trung Bộ hay đền thờ Tam giáo ở động Nhị Thanh, Lạng Sơn.
Phạm vi phân bố của dạng thức thờ Mẫu này là đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải bắc Trung Bộ, mà điểm chót phía nam của nó là Huế. Huế có vị trí rất đặc biệt trong sự giao thoa và chuyển tiếp của tục thờ Mẫu. Xét tổng thể cả về hệ thống thần linh và nghi thức thờ cúng, lễ hội, thì tục thờ Mẫu ở Huế vẫn thuộc hệ thống thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tuy nhiên, trong điện thần, nhất là vị thần chủ thì không phải là Liễu Hạnh như ở Bắc Bộ, mà là Thiên Ya Na, vị thần Việt gốc Chăm.
Không biết đã có đủ dữ kiện để có thể đưa ra những phán đoán về thời gian hình thành và định hình các lớp tín ngưỡng trong hệ thống thờ Mẫu của người Việt. Tất nhiên tục thờ nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời nguyên thuỷ, còn lớp thờ nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần, thì có lẽ đã xuất hiện sau thời phong kiến tự chủ với việc phong thần của nhà nước phong kiến. Còn lớp mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì cũng phải sau thế kỷ XV, nhất là thế kỷ XVI, XVII mới thực sự định hình và phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện thánh mẫu Liễu Hạnh và thịnh hành Đạo giáo dân gian ở nước ta.
DẠNG THỨC THỜ MẪU TRUNG BỘ
Nói là Trung Bộ, nhưng thực ra dạng thức này phân bố chủ yếu từ phía nam Hải Vân cho tới Ninh Bình Thuận cực nam Trung Bộ, còn bắc Trung Bộ, như đã nói ở phần trên, tục thờ Mẫu cơ bản thuộc dạng thức Bắc Bộ. Đặc trưng cơ bản của dạng thức này là tín ngưỡng thờ Mẫu không có sự hiện diện của Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, mà chỉ có lớp thờ Nữ thần và Mẫu thần (sơ đồ 2).
Tục thờ Mẫu ở Trung Bộ tuy thiếu bóng Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, nhưng lại hết sức phức tạp, tuy nhiên, với các tiêu chuẩn nêu trên, chúng ta có thể phân thờ Mẫu ở đây thành hai lớp chính, đó là thờ Nữ thần mà đại diện tiêu biểu là Bà Ngũ hành, Tứ vị Nương Nương và lớp thờ Mẫu thần mà đại diện là thờ Thiên Ya Na.
1. Tứ Vị Nương Nương
Tục thờ Tứ Vị Thánh N­ương hiện rất phổ biến ở nhiều làng ngư­ời Việt ven biển từ bắc vào nam, ngoài ra còn thấy ở các làng ven sông lớn nằm sâu trong đồng bằng. Tuy nhiên, tục thờ này phổ biến nhất vẫn là ven biển Trung Bộ, mà trung tâm là Đền Cờn (Nghệ An). Theo Ninh Viết Giao, ngoài Đền Cờn còn có 30 làng khác nữa ở Quỳnh L­ưu (Nghệ An) thờ Tứ Vị Thánh Nư­ơng. Riêng huyện Hoàng Hoá (Thanh Hoá) cũng có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh N­ương (3). Nhiều nơi ở ven biển Bắc Bộ thờ Tứ Vị Thánh Nư­ơng d­ưới dạng thờ Tống Hậu, Thiên Hậu.
Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, tục thờ Tứ Vị Thánh Nương rất phổ biến, hầu như làng nào cũng có, tuy nhiên, ít khi có miếu thờ riêng bà, như trường hợp làng Mỹ Khê có nơi thờ riêng Bà, gọi là Miếu Cả, còn phần lớn phối thờ với các vị thần khác và được gọi với cái tên là Bà Giàng Lạch, tức vị thần chủ của sông biển. Theo Nguyễn Xuân Hương, người dân Thanh Nghệ, nơi phát nguồn tục thờ Tứ Vị Thánh Nương đã mang tục thờ này vào trung và nam Trung Bộ và gọi Bà với danh thần mang tính dân gian – Bà Giàng Lạch hay Dàng Lạch Chúa Nương Nương,(4). Trong các sắc phong của Bà thường mang tước hiệu Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương.
Cũng giống như Quảng Nam, Đà Nẵng, ở Quảng Ngãi cũng không có nơi nào thờ phụng riêng Bà, mà thường phối thờ với Thiên ya Na, Bà Ngũ hành, Thiên Hậu.
Ở Nam Bộ tục thờ này không chỉ thấy ở cư dân ven biển, mà còn thấy ở cả vùng sâu trong nội địa, như Đồng Nai, Sông Bé, thành phố Hồ chí Minh…Tại các tỉnh kể trên, nhiều trường hợp là do dân Xứ Quang di cư vào đây mang theo tín ngưỡng nơi đất gốc.
Với những t­ư liệu biết đ­ược hiện nay, chúng ta có đ­ược những dị bản huyền thoại khác nhau về tục thờ Tứ Vị Thánh Nư­ơng, như gắn với triều thời Vua Hùng, sự tích gỗ thần ở Phương Cần (Hà Tĩnh)… (5). Thậm chí, Tạ Chí Đại Trừng cho rằng có mối liên hệ xa hơn giữa huyền thoại và tục thờ cúng Tứ Vị Thánh N­ương với tín ng­ưỡng cổ của ngư­ời Chăm, đó là thần Po Riyak (Po Rayak) là vị thần sông biển (6).
2. Tục thờ Ngũ Hành Nương Nương – Bà Ngũ Hành
Ở miền Trung, Ngũ hành thường thờ ở miếu, gọi là miếu Ngũ hành. Theo hồi cố của các bậc già cả, xưa kia gần như làng nào cũng có miếu ngũ hành, nay mất đi nhiều, chỉ còn một số nơi còn giữ được, như miếu Ngũ hành Nam Ô (Đà Nẵng), miếu Ngũ hành Cẩm Nam (Hội An), miếu Tân Hiệp (Cù Lao Chàm), miếu Ngũ Hành Tĩnh Thuỷ (Tam Kỳ)… (7). Còn lại đa phần phối thờ Ngũ hành với Thiên Ya Na, như trường hợp phối thờ Ngũ hành với Thiên Ya Na ở miếu Đại Điền (Núi Chúa) ở ngoại ô Nha Trang, Cổ Luỹ (Quảng Ngãi), Khê Trung (Đà Nẵng)…
Dân gian thường gọi gộp chung là Bà Ngũ Hành hay gọi tách riêng từng Bà theo tước hiệu: Kim Đức Thánh Phi Tặng Chiếu Hiển Hiệu Ứng Trung Đẳng Thần, Mộc Đức Thánh Phi Tặng Thanh Tú Khởi Trực Trung Đẳng Thần, Thuỷ Đức Thánh Phi Tôn Thần Gia Tặng Ôn Hậu Quang Trung, Hoả Đức Thánh Phi Tôn Thần Gia Tặng Ôn Hậu Quang Trung Đẳng Thần, Thổ Đức Thánh Phi Tặng Hoằng Đại Hậu Trung Đẳng Thần. Dân gian gọi tắt là: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Hoả, Bà Thuỷ, Bà Thổ. Nhiều nơi, gọi chung là Bà Ngũ Hành hay Ngũ Hành thượng giới.
Rất ít nơi còn thấy dạng thờ linh tượng Ngũ hành, như ở miếu thờ Bà chúa Ngọc ở Đại Điền (Nha Trang) hay miếu Ngũ hành Cẩm Nam (Hội An). Ở Cẩm Nam, có năm tượng Bà Ngũ hành đặt trong khung kính, màu y phục mỗi Bà tương hợp với sắc màu của năm hành: Đen, đỏ, xanh, trắng, vàng. Ở núi Đại Điền (Nha Trang), tuy thờ thần chủ là Thiên Ya Na – Chúa Ngọc, nhưng phối thờ Ngũ Hành ở dạng linh tượng – tượng năm Bà mặc trang phục mang sắc ngũ hành.
Ngũ hành trong quan niệm dân gian liên quan tới mọi mặt của đời sống con người, không kể người làm những nghề nghiệp khác nhau, như ngư nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán; không kể cư dân sống ở ven biển, dọc sông hay vùng đất bán sơn địa. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, những lăng miếu thờ hay phối thờ Bà Ngũ hành thường tập trung ở ven biển, các lạch, cửa sông, vốn là nơi từ xa xưa, dù làm nghề đánh bắt cá hay trồng trọt thì cũng đều quy tụ ở những nơi này. Đặc biệt các làng làm nghề cá ven biển, nghề thủ công (làm muối, làm đường, làm gốm…). Người ta thờ Bà Ngũ hành và cầu mong Bà phù hộ độ trì trong việc làm ăn, cầu sức khoẻ, cầu may mắn, tránh rủi ro, hoạn nạn…
Ở Trung Bộ, ngoài thờ chung Bà Ngũ hành ra, còn có hai Thần nữ được thờ riêng, đó là Bà Thuỷ hay Thuỷ Long thần nữ và Bà Hoả. Tuy nhiên, giữa hai Bà này thì việc thờ Bà Thuỷ Long vẫn phổ biến hơn.
3. Thờ Thiên Ya Na
Ở trung và nam Trung Bộ, Thiên Ya Na được thờ phụng như một Mẫu thần. Dưới cái tên Pô Inư Nưgar, Bà vốn là một Mẫu thần, Thánh Mẫu, Thần Mẹ của người Chăm, trước kia thờ chính ở tháp Bà Nha Trang, nay được thờ ở nhiều nơi trên đất Ninh Thuận, Bình Thuận, vùng đất người Chăm đang sinh sống hiện nay. Từ khi người Việt nam tiến vào miền trung, họ đã Việt hoá vị thần mẹ Chăm để trở thành Mẫu thần Việt và gọi với các tên Thiên Ya Na thánh MẫuBà Chúa Ngọc...
Nơi cực bắc thờ Thiên Ya Na là Huế, trong đó điển hình là điện Hòn Chén, tuy nhiên, như đã nói ở trên, Thiên Ya Na đã nhập vào hệ thống Tứ phủ, Tam phủ của hệ thống đạo Mẫu Bắc Bộ. Tháp Bà Nha Trang, nơi thờ chính của Pô Inư Nưgar xưa nay là nơi thờ Thiên Ya Na của người Việt. Oái oam thay, một vị thần thôi, nhưng lại của hai dân tộc và mang hai danh xưng khác nhau: Pô Inư Nưgar của người Chăm và Thiên Ya Na của người Việt.
Ngoài các nơi thờ phụng chính kể trên, suốt dọc Trung Bộ từ đèo Hải Vân tới cực nam Trung Bộ, đâu đâu cũng có miếu, điện thờ Thiên Ya Na với các danh thần khác nhau: Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Lồi, Bà Thu Bồn, Bà Bô Bô, Bà Phường Chào, Bà Thân Xứ, Bà Chúa Tiên, Bà Trường, bà Mẹ Đất...
Nghi thức thờ Mẫu ở Trung Bộ (trừ Huế là Mẫu Tam phủ) đều không có hệ thống lên đồng, mà theo hồi cố xưa kia, chỉ có dạng múa bóng theo kiểu người Chăm, nhưng nay hầu như không còn nữa. Các miếu, điện thờ thường là phối thờ nhiều vị nữ thần, trong đó Thiên Ya Na thường là thần chủ.
DẠNG THỨC THỜ MẪU NAM BỘ
1. Hiện nay, ở Nam Bộ chúng ta đều quan sát thấy sự hiện diện của cả ba lớp thờ Mẫu như đã trình bày ở trên: Lớp thờ Nữ thần, lớp Mẫu thần và lớp Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tuy nhiên, nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định, mà biểu hiện rõ rệt nhất là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần, thì ở Nam Bộ tôi có cảm giác sự phân biệt giữa hai lớp Nữ thần và Mẫu thần thường ít rõ ràng hơn. Thí dụ, nếu như ở Nam Bộ, Bà Chúa Xứ, Bà Cháu Ngọc (Thiên Ya Na), Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen đựoc coi như là nhưng Mẫu Thần và được tôn xưng là Thánh Mẫu, thì Bà Ngũ hành ( Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) trong đó đặc biệt là Bà Thuỷ Long, Bà Hoả thì là nữ thần hay Mẫu thần? Hay trường hợp thờ cúng Bảy Bà (bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Chúa Xứ, Cửu Thiên huyền nữ, Thiên Hậu, Bà thuỷ, Bà Hồng, Nữ Oa) thì lại vừa có Mẫu thần và Nữ thần. Tình trạng khó phân lớp giữa Nữ thần và Mẫu thần này ở Nam Bộ so với Bắc Bộ là hoàn toàn có thể giải thích được vì Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây, họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước, tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng văn hoá nói chung mà còn cả tín ngưỡng nữa. Theo tôi, đây cũng là một trong các đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ.
Do vậy, trên những nét đại lược nhất, có thể chọn ra trong những nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ các vị nữ thần được tôn xưng là Mẫu thần, như Bà Chúa Ngọc (Thiên Ya na), Bà Chúa Xứ, Bà Đen – Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Thiên Hậu, Cửu Thiên huyền nữ (trong dó kể cả các biến dạng của các Mẫu thần trên). Còn lại, các vị thần khác, như Bà Ngũ hành, Bà Thuỷ Long, Bà Hồng, Tứ Vị Nương Nương, Trinh nữ Nương Nương, bà Chúa Động, tổ Cô… đều là các Nữ thần. Sự phân biệt kể trên xuất phát từ hai tiêu chí, đó là: a) Các vị nữ thần được coi là Mẫu thần là do vị trí được tôn vinh trong tâm thức dân gian cũng như hệ thống nghi lễ hàng năm nhân dân dành cho họ và b) Danh xưng của các vị nữ thần này thường được gọi là Thánh Mẫu.
2. Các vị thần được coi là Nữ thần hay Mẫu thần vừa nêu trên đều là kết quả của quá trình giao lưu, hỗn dung văn hoá của nhiều lớp dân cư của người Khơ me, Việt, Chăm, Hoa. Đơn cử trường hợp Bà Chúa Ngọc vốn gốc là vị nữ thần Pôn Inư Nưgar – Bà Mẹ Xứ Sở của người Chăm, mà nơi thờ tự chính là tháp Bà Nha Trang. Sau này, khi người Việt đặt chân vào trung và nam Trung Bộ với truyền thống thờ Mẫu sẵn có từ quê hương nên đã Việt hoá vị thần Chăm này với tên gọi mang chút chữ nghĩa là thánh Mẫu Thiên Ya Na, còn dân gian vẫn gọi là Bà Chúa Ngọc, phổ biến từ Nha Trang ra tới Huế, trong đó Huế, với điện Hòn Chén được coi là nơi gặp gỡ giữa Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ Bắc vào và Bà Mẹ Pôn Inư Nưgar của người Chăm từ nam ra. Hiện nay, người Chăm không đến Tháp Bà Nha Trang để thờ phụng Bà Mẹ Xứ Sở của mình nữa, mà di chuyển nơi thờ chính của vị nữ thần này về Hữu Đức (Ninh Thuận). Khi người Việt từ Trung Bộ vào Nam Bộ thì đã mang theo vị nữ thần Chăm đã Việt hoá này vào thờ phụng khá rộng rãi ở đây với linh tượng bà Chúa Ngọc với hai người con trai là Cậu Tài, Cậu Quý phối thờ hai bên.
Bà Chúa Xứ và Linh Sơn thánh Mẫu-Bà Đen thì lại là kết quả giao lưu và hỗn dung tín ngưỡng giữa người Việt và Khơ me. Với tâm thức thờ Mẫu từ quê hương là Bắc Bộ và Trung Bộ, người Việt vào Nam Bộ đã bắt gặp tục thờ nữ thần của người Khơ Me, đó là Bà Neang Khmau, một nữ thần Đất để tạo nên hình tượng bà Chúa Xứ mà ngày nay ngoài nơi thờ chính ở Núi Sam (An Giang), còn được dân gian thờ phụng ở hầu khắp Nam Bộ trong phạm vi vùng, làng và thậm chí trong gia đình nữa. Đây là vị Mẫu thần có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp nhất ở Nam Bộ ngày nay.
Có một sự hỗn dung khác giữa tín ngưỡng Việt và người Khơ me bản địa, đó là hình tượng Bà đen – Linh Sơn Thánh Mẫu. Ai cũng rõ rằng, tiền thân của Bà Chúa Xứ, Bà Đen của Khơ me và kể cả bà Pôn Inư Nagar của Chăm thì đều thấy hình tượng thấp thoáng của Ấn Độ giáo, trong đó vai trò của Siva là nổi bật. Tuy nhiên, quá trình bản địa hoá văn hoá ấn Độ của người Khơ me và Chăm trên địa bàn Trung Bộ và Nam Bộ đã diễn ra trước khi người Việt đầu tiên có mặt. Và sau đó, khi người Việt có mặt nơi đây thì họ lại Việt hoá các vị nữ thần Chăm và Khơ me này thành các vị nữ thần tôn kính của mình. Trong công trình trước kia của mình, chúng tôi đã có dịp bàn đến quá trình Việt hoá vị nữ thần Khơ me này qua các chuỗi chuyển tiếp Kali – Bà Đinh – Bà Chúa Động – Bà Đen – Linh Sơn Thánh Mẫu. Tất nhiên quá trình nhận thức sự chuyển tiếp này cũng còn cần phải tiếp tục, nhưng một hiện tượng thường đập vào mắt các du khách là ở đền Bà Chúa Xứ, mà như trên đã nói vốn gốc là nữ thần Khơ me, không thấy có hiện tượng phối thờ Bà Đen, nhưng ở đền-chùa Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen, thì nơi chính điện, người ta thấy Bà Đen và Bà Chúa Xứ ngồi ngang nhau, một bà mặt đen (Bà Đen) và mặt trắng (Bà Chúa Xứ). Hơn nữa theo quan niệm dân gian ở đây, người ta coi Bà Đen và Bà Chúa Xứ là hai chị em.
Còn một móc xích nữa mà nhân đây xin nêu là tại một ngôi đền lớn thờ Bà Rá mà dân gian quen gọi là Bà Đen ở Phước Long (Bình Phuớc) lại phối thờ linh tượng Bà Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen và coi Bà Rá và Bà Đen- Linh Sơn Thánh Mẫu là hai chị em, trong khi đó ở đền Linh Sơn Thánh Mẫu (Tây Ninh) lại không phối thờ Bà Rá. Xa hơn nữa, hé mở cho chúng ta mối quan hệ giữa Bà Chúa Xứ (An Giang) – Bà Đen (Tây Ninh) – Bà Rá (Phước Long) với tục thờ Muk Juk (Bà Đen) của người Chăm ở phía đông nam trên địa bàn Ninh Thuận, Bình Thuận.
Còn Thiên Hậu với rất nhiều đền, miếu, cung thờ Bà ở khắp Nam Bộ và Trung Bộ thì do người Hoa di dân mang tới khoảng thế kỷ XVII. ở đây không có sự Việt hoá Thiên Hậu của người Hoa, tuy nhiên, khi vào Việt Nam thì Thiên Hậu không chỉ là vị thần bảo hộ của những người buôn bán trên biển mà đã mang đa chức năng hơn, khiến không chỉ người Hoa đến cầu cúng mà còn cả người Việt, thậm chí có đền thờ Thiên Hậu ở Cà Mâu lại do toàn người Việt địa phương đến hương khói, cầu xin sự phù hộ của Bà.
Tính đa lớp trong tín ngưỡng thờ Mẫu là một đặc trưng chung trên phạm vi cả nước, tuy nhiên, đặc trưng này thể hiện rất rõ, rất đậm trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ. Chúng ta hãy lấy một ví dụ. Trong đền thờ Bà Chúa Xứ ở Núi Sam hay Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen đều có những miếu nhỏ nằm ngoài điện thờ chính. Nhìn vào không gian chật hẹp trong am miếu đó ta thấy hình tượng trụ đá tròn, trên đỉnh có phủ tấm khăn đỏ, biểu tượng của Linga nguyên thuỷ, hai bên có tượng hay hai bát hương mà dân gian quan niệm đó là thờ Cậu (Cậu Tài, Cậu Quý). Bên ngoài, người ta ghi đó là nơi thờ ông Tà hay Tà thần. Nhìn vào hiện tượng thờ cúng dân gian này chúng ta thấy ít nhất cũng có 4 lớp văn hoá – biểu tượng tiềm ẩn: 1) Lớp thờ thần Siva của Ấn giáo biểu tượng bằng linga nguyên thuỷ, tồn tại ít nhất từ thời vương quốc Phù Nam đã bị Ấn Độ hoá, 2) Người Khơ me đã dân gian hoá linh tượng này thành biểu tượng của vị thần Nieak Tà, mà sau này người Việt Việt hoá tên gọi thành ông Tà, vị thần mang lại mưa thuận, gió hoà, tránh rủi ro, dịch bệnh và cả cầu mong tình yêu nữa…3) Linh tượng này còn tiềm ẩn lớp tín ngưỡng Chăm, với việc đồng nhất Linga với Pôn Inư Nưgar, mà hai bên Bà luôn có linh tượng của hai con trai là cậu Tài và cậu Quý và 4) Người Việt khi vào đây đã Việt hoá thành hình tượng thờ Cậu của đạo Mẫu, với tâm thức lưỡng nguyên đực – cái / núi Bà – núi Cậu, mang lại sự phồn thực sinh sôi.
3. Cũng như người Việt ở Bắc Bộ, trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần với việc tiếp thu ảnh hưởng đạo giáo dân gian Trung Quốc đã ra đời đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ là hình thức phát triển cao nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung, nhất là từ thế kỷ XVI-XVII, trong điều kiện xã hội Việt Nam thời đó xuất hiện Thánh mẫu Liễu Hạnh và bà đã trở thành vị thần chủ cao nhất của Đạo Mẫu Việt Nam. Và cũng từ đây, đạo Mẫu trở thành một tín ngưỡng tôn giáo gắn với đời sống dân gian, thoả mãn ước vọng sức khoẻ, tài lộc, may mắm của con người.
Những lớp cư dân Việt sớm nhất từ Bắc Bộ, bắc Trung Bộ vào trung, nam Trung Bộ và Nam Bộ, khi mà ở Bắc Bộ đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ chưa thật hình thành và định hình, do vậy mà họ mang theo chủ yếu là tâm thức thờ Nữ thần, Mẫu thần và khi vào vùng đất mới, nơi có người Chăm và Khơ me sinh sống, đã hỗn dung và tiếp thu tín ngưỡng người dân bản địa để hình thành nên các lớp thờ Nữ thần và Mẫu thần như đã nói ở trên.
Hiện tại, ở miền Trung, nhất là trung và nam Trung Bộ chúng tôi chưa quan sát thấy cơ sở đền phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và kèm theo nó là nghi lễ Hầu bóng, mặc dù ở đó không ít nơi thờ Nữ thần và Mẫu thần, mà tiêu biểu là thờ Thiên Ya Na – Bà Chúa Ngọc. Nhưng ở Nam Bộ thì lại khác, bên cạnh tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần thì ở nhiều nơi đã thấy các đền, điện thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và kèm theo là nghi lễ Hầu bóng.Theo điều tra bước đầu và có lễ còn xa với sự thật thì ở Sài Gòn có 11 đền, điện, Bình Dương có 7 đền, điện, Đồng Nai có 4 đền, điện. Ngoài ra còn thấy rải rác ở Bà Rịa – Vũng Tàu, Đà Lạt… Vấn đề đặt ra là ai và khi nào người Việt đã mang đạo Mẫu và kèm theo đó là nghi thức Hầu bóng vào Nam Bộ?
Nguyễn Chí Bền và Hồ Tường cho rằng trong thời kỳ Pháp thuộc, đặc biệt là từ sau năm 1954, thì Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ phát triển ở Nam Bộ do người Việt từ Bắc Bộ trực tiếp di cư mang vào (8). Cùng với việc du nhập đạo Mẫu từ Bắc Bộ, hình thức thờ phụng các anh hùng dân tộc, đặc biệt là thờ Đức Thánh Trần, một “cặp bài trùng” với đạo Mẫu cũng du nhập theo, khiến cho nhiều nơi ở Nam Bộ, nhất là phía đông Nam Bộ phát triển hình thức tín ngưỡng này. Tất nhiên, như trên đã nói, cùng với đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và thờ Đức Thánh Trần, thì nghi lễ Hầu bóng và lễ hội “tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”, mà ở đây Mẹ là Thánh Mẫu, còn Cha là Đức Thánh Trần, một thứ Ngọc Hoàng của đạo giáo dân gian Việt Nam cũng dần phổ biến ở Nam Bộ.
4. Về phương diện nghi lễ, ở Nam Bộ, nếu nơi nào có tục thờ Nữ thần và Mẫu thần thì thường có diễn xướng hát bóng rỗi, còn nơi có đền phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì có diễn xuớng Hầu bóng. Về diễn xướng nghi lễ Hầu Bóng ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các thần linh vào thân xác các ông, bà đồng nhằm cầu sức khoẻ, tài lộc, đó là một dạng thức của shaman giáo, tồn tại ở nhiều nước trên thế giới. Để thực hiện nghi thức mang tính shanan này, nó đã sản sinh và tích hợp các hiện tượng văn hoá nghệ thuật, như hát văn và nhạc chầu văn, múa thiêng…tạo nên một thứ sân khấu tâm linh, tượng trưng cho sự tái sinh và hiện diện của thần linh Tam Phủ, Tứ phủ thông qua thân xác các ông đồng, bà đồng.
Đối với hát bóng rỗi Nam Bộ có lẽ chúng ta chưa có được những nghiên cứu đi sâu vào bản chất tín ngưỡng tôn giáo của nó. Nếu múa trong Hầu bóng là múa của thần linh, biểu tượng của sự tái hiện của thần linh trong thân xác các ông đồng, bà đồng, vậy múa bóng là múa của thần linh hay múa của con người dâng lễ trước thần linh? Có hay không hình thức nhập hồn hay thoát hồn trong hát – múa bóng rỗi? Nguồn gốc của tục hát bóng rỗi ở Nam Bộ? Trong hoàn cảnh xã hội nào mà Hát bóng Nam Bộ phát triển theo hướng giảm dần tính nghi lễ, tính thiêng để trở thành diễn xướng mang tính tạp kỹ? Những giá trị văn hoá nghệ thuật của hát bóng rỗi là gì?… Đó là những vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta phải trả lời.
Nếu như Hầu bóng của Huế mang những sắc thái riêng địa phương thì Hầu bóng của Nam Bộ về cơ bản giống với Hầu bóng Bắc Bộ. Nhìn vào gốc tích các ngôi đền và những người Hầu bóng thì phần lớn đều có nguồn gốc từ Bắc Bộ. Tuy nhiên, khi du nhập vào vùng đất mới, đạo Mẫu và Hầu bóng ở Nam Bộ cũng có những sắc thái riêng, thể hiện qua điện thần đạo Mẫu có thêm các vị thần địa phương, như Lê văn Duyệt, các vị thánh hàng chầu, hàng quan nguồn gốc từ người Chăm, Khơ me, người Tây Nguyên…. Hình thức diễn xướng Hầu bóng có bớt phần quy chuẩn nghi lễ, tăng thêm chất giao lưu sinh hoạt văn hoá… Tất cả đó tạo nên sắc thái riêng của Hầu bóng Nam Bộ so với Hầu bóng ở Bắc Bộ và ở Huế.
Như vậy, trên miền đất Nam Bộ hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu hiện diện với cả ba tầng bậc: Thơ Nữ thần, Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tương đồng với thờ Mẫu ở miền Bắc, tuy nhiên, rõ ràng là nguồn gốc, con đường hình thành và sắc thái của chúng có nhiều nét khác biệt.
Nếu như thờ Mẫu ở Bắc Bộ có sự phát triển tuần tự và gắn bó chặt chẽ giữa 3 lớp tín ngưỡng thờ Mẫu, thì ở Nam Bộ, do quá trình di dân và giao thoa mạnh mẽ, nên lớp thờ Nữ thần, Mẫu thần của người Việt tới trước và lớp thờ Mẫu tam phủ, Tứ phủ của người Việt tới sau có sự tách biệt nhất định (sơ đồ 3). Và cũng do vậy, diễn xướng nghi lễ Hầu bóng của Mẫu tam phủ, Tứ phủ và Hát bóng rỗi của tục thờ nữ thần và Mẫu thần cũng khác biệt nhau, khiến cho các hình thức tín nguỡng – văn hoá này trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Đạo Mẫu và các hình thức shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á. Nxb. KHXH. H., 2001
2. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Đạo Mẫu ở Việt Nam. Nxb. Văn hoá-Thông tin, H., 1993, 2001.
3. Ninh Viết Giao. Địa chí Quỳnh Lưu. Nxb. nghệ An, 1998.
4. Nguyễn Xuân Hương. Thờ mẫu ở cư dân ven biển Quảng Nam, Đà Nẵng. Văn hoá dân gian, số 2, 2005.
5. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Văn hoá dân gian làng ven biển. Nxb. Văn hoá dân tộc. H.,2000.
6. Tạ Chí Đại Trường. Thần, người và đất Việt. Văn nghệ, 1978.
7. Nguyễn Xuân Hương. Bdd.
8. Nguyễn Chí Bền, Hồ Tường. Về hai hình thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ – “Đạo Mẫu và các hình thức Shamam trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á”, Nxb. KHXH. H., 2004.
Nguồn: Đạo mẫu Việt Nam