Có ba vụ ly giáo trầm trọng nhất: trước hết là vụ ly giáo giữa giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống năm 1054, rồi vụ ly giáo của Giáo Hội Tin Lành do Martin Luther khởi xướng năm 1517, và vụ ly khai của Anh giáo do vua Henry VIII quyết định năm 1534.
1 . Giáo Hội Chính Thống
Kitô giáo đã do Chúa Kitô thành lập tại Palestina trong ba năm rong ruổi rao truyền Tin Mừng, xua trừ quỷ dữ và chữa lành tật bệnh. Chúa Giêsu đã tuyển chọn Đoàn Mười Hai Tông Đồ và các môn đệ để các vị cộng tác với Ngài, và truớc khi về Trời Ngài đã truyền cho các vị “ra đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 2819-20). Sau khi nhận được Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các vị bắt đầu thi hành sứ mệnh này, như kể trong chương 2 sách Tông Đồ Công Vụ. Từ đó Kitô giáo bắt đầu lan nhanh, không chỉ trong đất Palestina, nhưng cả trong nhiều vùng khác nữa bên Tiểu Á, và lan sang cả Roma thủ đô của đế quốc. Năm 313 sau khi hoàng đế Costantino ký sắc lệnh Milano hủy bỏ bắt đạo, Kitô giáo bắt đầu phát triển mạnh và nhanh hơn. Năm 330 hoàng đế Costantino xây thành phố mang tên mình là Costantinopoli và tuyên bố nó là thủ đô thứ hai của đế quốc với tước hiệu là “Roma mới”. Năm 395 sau khi hoàng đế Teodosio qua đời, đế quốc Roma bị chia thành hai miền Đông và Tây. Nhưng ngay trong các năm cuối cùng của Đế quốc, quyền bính chính trị, văn hóa và tôn giáo bắt đầu ngày càng di chuyển sang phiá Đông. Thế rồi khi Đế quốc bên Tây sụp đổ năm 476, Đế quốc bên Đông và đặc biệt là Costantinopoli ngày càng chiếm địa vị quan trọng. Sự chia rẽ cũng ngày càng gia tăng, vì bên Tây nói tiếng Latinh, trong khi bên Đông nói tiếng Hy lạp. Tất cả các yếu tố này khiến nảy sinh ra 8 cuộc ly khai trong 8 thế kỷ giữa Roma và Costantinopoli.
Thật ra, ngay trong các thế kỷ đầu đã xảy ra các chia rẽ giữa các kitô hữu. Năm 451 sau Công Đồng Chung Calcedonia đã xảy ra sự chia rẽ đầu tiên, bởi vì vài Giáo Hội Đông Phương không chấp nhận các kết luận của Công Đồng này. Thế là nảy sinh ra các Giáo Hội Đông Phương Cổ gồm Giáo Hội Sirô chính thống Siria, Giáo Hội Assirrô hay Caldea bên Ba Tư, tức Iran ngày nay, Giáo Hội Sirô chính thống bên Ấn Độ, Giáo Hội Armeni bên Armenia, Giáo Hội Copte bên Ai Cập và Giáo Hội Etiopi bên Etiopia.
Năm 691-692 Giáo Hội Bisantin cử hành Công Đồng Trullano đưa ra 102 khoản luật và thực hiện một cuộc cải cách, nhưng không được Giáo Hội Tây Phương chấp nhận. Lễ Giáng Sinh năm 800 khi hoàng đế Carlomagno, vua người Franc bên Pháp từ năm 768 và vua người Longobardi bên Italia từ năm 774, được Đức Giáo Hoàng Leo III đội triều thiên đăng quang hoàng đế của Đế Quốc Thánh Roma trong đền thờ thánh Phêrô, thì Đông Phương mất dần quyền tối thượng bênh vực Kitô giáo của mình, và nhường chỗ cho Tây Phương. Vào khoảng năm 1.000 các hiểu lầm ngày càng trở nên sâu đậm, đến độ ĐGH Leo X đã phải gửi một phái đoàn sang Costantinopoli để tái lập các liên lạc giữa Giáo Hội Roma và Giáo Hội Đông Phương. Phái đoàn Roma do ĐHY Umberto da Silva Candida hướng dẫn. Nhưng trong thực tế cuộc gặp gỡ giữa các sứ bộ của Đức Giáo Hoàng và Đức Thượng Phụ Costantinopoli Michele Cerulario, đã có các hiệu quả trái nghịch dẫn đưa tới thất bại.
Ngày 16 tháng 7 năm 1054 hai phái đoàn Roma và Costanttinopoli ra vạ tuyệt thông cho nhau. Thế là xảy ra cuộc chia rẽ lớn nhất trong lịch sử của Kitô giáo. Kể từ đó Kitô giáo chia thành hai nhánh: Giáo Hội Công Giáo, tức đại đồng, bên Tây Phương và Giáo Hội Chính Thống, tức trung thành với giáo lý đích thật, bên Đông Phương.
Có hai lý do chính dẫn tới sự chia rẽ này: thứ nhất là vấn đề “Quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng” và thứ hai là từ “Filioque” thêm vào Kinh Tin Kính Niceno-Costantinopoli. Trong hai Công Đồng Chung Nicea năm 325 và Costantinopoli năm 381 Giáo Hội đã đưa công thức Kinh Tin Kinh. Công Đồng Chung thứ ba nhóm tại Êphêxô đã thiết định rằng Kinh Tin Kính không thể được thay đổi nữa. Tại Toledo bên Tây Ban Nha, tức bên Tây Phương, vào năm 587 các kitô hữu đã thêm vào từ “Filioque” để ám chỉ rằng Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, và được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Mục đích của việc thêm vào này là để chống lại lạc thuyết của Ario là đan sĩ, Giám Mục và thần học gia, sống giữa các năm 256-336, cho rằng bản tính thiên chúa của Chúa Con thấp hơn bản tính thiên Chúa của Thiên Chúa Cha, và vì thế đã có một thời trong đó Ngôi Lời của Thiên Chúa đã không hiện hữu, và vì vậy đã được tạo dựng sau đó. Chỉ vào năm 1014 từ này mới được dùng trong Kinh Tin Kính và chỉ vào năm 1274 trong Công Đồng Lyon nó mới được chính thức đưa vào trong Kinh Tin Kính.
Liên quan tới “quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, các văn bản phúc âm cho thấy rõ ràng tông đồ Phêrô đã có một vai trò hàng đầu so với mười một tông đồ khác. Sau khi Chúa Giêsu về Trời các tông đồ đã hướng tới Phêrô để có một hướng dẫn trong vài thời điểm quan trọng.
Trước khi qua đời các tông đồ đã chọn các người kế vị là các Giám Mục. Trong tất cả các Giám Mục, người kế vị tông đồ Phêrô đã tiếp tục có quyền bính cao hơn và được gọi là Giáo Hoàng để phân biệt với các Giám Mục khác. Như thế Giáo Hoàng là thủ lãnh của Giáo Hội, vì là người kế vị tông đồ Phêrô. Đối với các kitô hữu đông phương trong thời gian trước khi xảy ra vụ ly khai lớn, Đức Giáo Hoàng đã không được coi là đầu của toàn thể Giáo Hội, kể cả Giáo Hội Đông Phương. Đối với họ, nếu phải có một vị lãnh đạo, thì vị đó phải là Đức Thượng Phụ của thành phố quan trọng nhất, nơi hoàng đế sinh sống, tức là Đức Thượng Phụ Costantinopoli. Vì thế họ cho việc Đức Giáo Hoàng đòi có quyền trên 4 toà Thượng Phụ khác là không đúng. Tưởng cũng nên ghi nhận rằng vào thời hai Giáo Hội Đông Tây ra vạ tuyệt thông cho nhau, ĐGH Leo III đã qua đời, quyền bính của ĐHY Umberto, đặc sứ của ĐGH cũng suy giảm, và vì thế đã không thể ra vạ tuyệt thông cho Đức Thượng Phụ Cerulario. Hơn nữa đã không có Công Đồng Chung nào đã ra vạ tuyệt thông cho Giáo Hội kia. Nhiều Giáo Hội Đông Phương khẳng định rằng họ vẫn hiệp thông với Giáo Hội Tây Phương, mặc dù các Giáo Hội này không là thành phần của Giáo Hội Chính Thống. Các biến cố tiếp theo như các các cuộc thập tự chinh lại càng làm cho Đông và Tây xa nhau hơn nữa. Đặc biệt cuộc thập tự chinh năm 1204 đã gia tăng sự chia rẽ này giữa hai bên, vì các binh sĩ thập tự quân công giáo đã đánh chiếm thành Costantinopoli, cướp bóc và tàn sát các kitô hữu chính thống. Sau cùng biến cố Costantinopoli rơi vào tay quân hồi Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453 đã không cho phép các cuộc tiếp cận giữa Roma và Costantinopoli, nghĩa là giữa các tín hữu công giáo và các tín hữu chính thống. Vì thế bắt đầu từ thế kỷ XV hai Giáo Hội ngày càng xa rời nhau hơn.
Thế rồi từ năm 1917 trở đi, và nói chung từ năm 1944, chế độ cộng sản Liên Xô đã khiến cho các Giáo Hội chính thống của Nga và của vùng Tây Âu châu phải sống dưới sự kìm kẹp và bị điều kiện hóa trầm trọng. Sự kiện này xem ra đã khiến cho người ra nghĩ rằng đông phương đã trở thành vô thần, và đã khiến cho Giáo Hội Công Giáo coi đông phương là đất truyền giáo, đến độ năm 1992 các Thượng Phụ nhóm họp tại Costantinopoli đã phản đối chống lại các hoạt động truyền giáo, cho rằng Giáo Hội Công Giáo tìm chiêu dụ tín đồ gây thiệt hại cho lộ trình hoà giải các kitô hữu đông phương và các kitô hữu tây phương.
Sự kiện đó là cho tới nay Giáo Hội Tây Phương và Giáo Hội Đông Phương vẫn còn chia rẽ và mỗi Giáo Hội tự định nghĩa là “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Điều này gợi ý rằng với cuộc Ly giáo chính phía bên kia đã bỏ Giáo Hội đích thật. Do đó các tín hữu công giáo gọi cuộc Ly giáo là “Cuộc ly giáo lớn của Đông Phương”, trong khi các tín hữu chính thống thì nói đó là “Cuộc Ly giáo của người Latinh”.
Sau đây là các nét chính yếu diễn tả bản chất của Giáo Hội Công Giáo: Các điểm quy chiếu của Giáo Hội là Thánh Kinh, Truyền Thống, trung thành với các lễ nghi, việc tôn kính Đức Maria và các Thánh, và Huấn quyền của Đức Giáo Hoàng diễn tả quyền tối thượng của thánh Phêrô, quyền giáo huấn của các Giám Mục và các linh mục. Giáo Hội có các cộng đoàn tu sĩ, các đan sĩ và giáo dân nam nữ. Hàng giáo sĩ và tu sĩ sống độc thân. Có Bẩy bí tích: Rửa Tội, Thánh Thể, Thêm Sức, Giải Tội hay Hoà Giải, Truyền chức thánh, Hôn Phối và Xức dầu bệnh nhân. Tín hữu công giáo tin và sùng kính Đức Maria như là Mẹ Thiên Chúa. Lễ nghi phụng vụ là Thánh Lễ ngày thường và lễ trọng. Tham dự lễ trọng là điều luật, quy chiếu Mười Điều Răn dậy thánh hóa các ngày lễ. Trong Thánh lễ việc thánh hóa hay truyền Phép bánh và rượu được cử hành trước tín hữu, và bánh thánh là bánh không men. Phụng vụ được tất cả mọi tín hữu tham dự tích cực. Các nhà thờ có nhiều ảnh tuợng và hình vẽ diễn tả các chuyện Thánh Kinh, Đức Mẹ và các Thánh.
Và sau đây là các đặc thái của Giáo Hội Chính Thống. Các điểm quy chiếu của Giáo Hội là Thánh Kinh, Truyền Thống, trung thành với các lễ nghi, việc tôn kính Đức Maria và các Thánh. Thánh công đồng quy tụ các Thượng phụ và các Giám Mục. Các linh mục có quyền lập gia đình, nhưng không được làm Giám Mục. Các linh mục nào muốn làm Giám Mục phải sống độc thân. Các cộng đoàn đan sĩ rất đông đảo và quan trọng, các vị không được lập gia đình. Giáo Hội Chính Thống cũng có 7 bí tích như Giáo Hội Công Giáo. Tín hữu cũng tin và sùng kính Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa. Thánh lễ chỉ được cử hành ngày Chúa Nhật và không có luật buộc tham dự. Lễ nghi thánh thể rất dài và phức tạp. Trong thánh lễ việc truyền phép được thực thi sau một bức màn, giống như các tư tế do thái khi họ cầu nguyện trước Hòm Bia Giao Ước. Bánh dùng là bánh có men thường. Các nhà thờ chính thống có các ảnh Icone vẽ trên gỗ.
Như thế đâu là những khác biệt chính giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống?.
Liên quan tới quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, Giáo Hội Công Giáo dựa trên việc kế vị thánh Phêrô và tin vào quyền này của người kế vị thánh nhân. Giáo Hội Chính thông không chấp nhận sự kiện này. Mỗi Giáo Hội Chính Thống tự quản trị mình. Liên quan tới quyền không thể sai lầm của Đức Giáo Hoàng Giáo Hội Công Giáo chấp nhận khi ĐGH tuyên bố các tín điều. Giáo Hội Chính thống không chấp nhận quyền này. Liên quan tới từ “Filioque” Giáo Hội Công Giáo đã thêm vào Kinh Tin Kính trong Công Đồng Toledo năm 587. Trong Kinh Tin Kính cùa Giáo Hội Chính Thống không có từ “Filioque”. Ngôn ngữ sử dụng trong phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo là tiếng Latinh hay các tiếng bản xứ. Giáo Hội Chính Thống dùng tiếng Hy Lạp trong phụng vụ. Trong Giáo Hội Công Giáo hàng giáo sĩ bắt buộc phải sống độc thân. Trong Giáo Hội Chính Thống các linh mục được quyền lập gia đình, ngoại trừ các Giám Mục và các đan sĩ phải sống độc thân. Giáo Hội Công Giáo không chập nhận ly dị. Giáo Hội Chính Thống chấp nhận ly dị. Các linh mục công giáo có thể để râu, các linh mục chính thống thường để râu dài. Trong các nhà thờ công giáo có các tượng ảnh thánh và hình vẽ, trong các nhà thờ chính thống chỉ có các icone, tức các hình vẽ trên gỗ là các cửa sổ mở lên trời. Giáo Hội Công Giáo có tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và Đức Mẹ hồn xác lên Trời, Giáo Hội Chính Thống không chấp nhận hai tín diều này. Giáo Hội Công Giáo thừa nhận có Luyện ngục, Giáo Hội Chính Thống không thừa nhận Luyện ngục. Giáo Hội Công Giáo có tất cả 21 Công Đồng. Giáo Hội Chính Thống chỉ có 7 Công Đồng đầu tiên. Giáo Hội Công Giáo cử hành Thánh Thể với bánh không men, Giáo Hội Chính Thống cử hành Thánh Thể với bánh mì, tức bánh có men.
Tưởng cũng nên ghi nhận rằng ngay từ trước vụ ly khai năm 1054 các Giáo Hội Đông Phương đã không thừa nhận quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, từ “Filioque” trong Kinh Tin Kính, Luyện ngục trong giáo lý và bánh không men trong việc cử hành Thánh Lễ.
Mỗi giáo hội chính thống tự quản gồm Công Nghị các Giám Mục do một thượng phụ lãnh đạo của một Giáo Hội quan trọng chủ sự. Các Giáo Hội Chính Thống chính gồm Giáo Hội Chính Thống Costantinopoli với Đức Thượng Phụ là thủ lãnh danh dự của Chính Thống giáo toàn thế giới, Giáo Hội Chính Thống Alesandira, Hy lạp, Rumania, Serbia, Nga và Bulgaria.
2 .Cuộc ly khai của Giáo Hội Tin Lành hay Giáo Hội Cải Cách
Trong lịch sử Kitô giáo, ngoài các vụ chia rẽ có ngày từ hồi thế kỷ thứ IV cuộc ly khai lớn nhất đầu tiên xảy ra ngày 16 tháng 7 năm 1054, khi Giáo Hội Tây Phuơng và Giáo Hội Đông Phương ra vạ tuyệt thông cho nhau và biến thành Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống.
Sau đó các biến cố chính trị lịch sử như vụ các thập tự quân công giáo cuộc viễn chinh lần thứ tư đánh chiếm thành Costantinopoli, cướp bóc và tàn sát các kitô hữu chính thống năm 1204, biến cố Costantinopoli rơi vào tay quân hồi của đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453 và chế độ cộng sản Liên Xô thống trị Nga từ năm 1917 và các nước Đông Âu từ năm 1944, đã khiến cho Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống ngày càng xa nhau. Phải đợi cho tới sau Công Đồng Chung Vaticăng II tình hình mới được cải tiến với phong trào đối thoại đại kết.
Cuộc ly khai lớn thứ hai xảy ra hơn bốn thế kỷ sau vào năm 1517 với Phong trào phản đối hay cải cách do Martin Luther khởi xướng làm nảy sinh ra các Giáo Hội Tin Lành hay Giáo Hội Cải Cách. Martin Luther là một linh mục dòng Augustino, người Đức, giáo sư tại phân khoa thần học Wittenberg.
Trong các năm từ 1510 tới 1520 Martin Luther dậy Thánh Kinh: các Thánh Vịnh, các thư gửi thánh Phaolô các giáo đoàn Do thái, Roma và Galát. Giáo sư xác tín rằng Giáo Hội thối nát trong các đường lối của mình và đã đánh mất đi nhiều chân lý chính của Kitô giáo. Điều quan trọng nhất là việc công chính hóa. Tín hữu chỉ được công chính hóa nhờ đức tin và ơn thánh Chúa ban, chứ không do công nghiệp của mình. Công chính hóa hoàn toàn là công trình của Thiên Chúa. Kitô hữu nhận được sự công chính hoàn toàn từ bên ngoài; sự công chính không chỉ đến từ Chúa Kitô, nhưng là sự công chính của Chúa Kitô được gán cho kitô hữu qua đức tin. Do đó, chỉ có đức tin mới khiến cho tín hữu được trở nên công chính và chu toàn luật lệ. Điểm đầu tiên và chính yếu đó là Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Chúa đã chết cho tội lỗi chúng ta, và đã sống lại cho sự công chính hoá của chúng ta (Rm 3,24-25). Chỉ có Ngài là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,29) và Thiên Chúa đã chất lên Ngài tội ác của chúng ta (Is 53,6). Tất cả mọi người đều đã phạm tội và được nên công chính một cách tự do, mà không có các công việc làm và công nghiệp của mình, nhưng bởi ơn thánh Chúa, qua ơn cứu độ nơi Chúa Kitô Giêsu, trong Máu Ngài (Rm 3,23-25). Đây là điều phải tin. Nó không được chiếm hữu hay giật lấy được bởi bất cứ công việc, luật lệ hay công nghiệp nào. Vì thế thật rõ ràng và chắc chắn là chỉ niềm tin này khiến cho chúng ta nên công chính. Việc tái khám phá ra Chúa Kitô và ơn cứu độ của Ngài là điểm đầu tiên trong hai điểm trở thành nền tảng của sự Cải Cách cùng với Thánh Kinh và chỉ có Thánh Kinh. Martin Luther dựa trên điều này để chửi rủa chống lại việc buôn bán ân xá trong Giáo Hội Công Giáo thời đó.
Martin Luther khước từ nhiều giáo huấn và thực hành của Giáo Hội Công Giáo thời Muộn Trung Cổ. Ông tin rằng sự cứu rỗi đời sau là ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho tín hữu qua niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, là Đấng cứu loài người khỏi tội lỗi, chứ không do các việc làm hay công nghiệp của con người. Thần học của Martin Luther cũng thách thức quyền bính và chức vụ của Đức Giáo Hoàng, bằng cách khẳng định rằng chỉ có Thánh Kinh là nguồn gốc duy nhất của sự hiểu biết được Thiên Chúa mạc khải. Ông cũng chống lại khuynh hướng duy giáo sĩ, bằng cách khẳng định chức linh mục thánh của tất cả mọi kitô hữu.
Lý cớ cho các phản đối gay gắt của Martin Luther là vụ Johann Tetzel, tu sĩ dòng Đa Minh và là uỷ viên giáo hoàng đặc trách việc ban các ân xá, được gửi sang Đức để bán các ân xá nhằm lấy tiền xây cất đền thờ thánh Phêrô tại Roma. Thần học công giáo Roma tuyên bố rằng đức tin không thôi không thể khiến cho con người được công chính; việc công chính hóa chỉ tuỳ thuộc đức tin tích cực được thể hiện trong tình bác ái và các việc làm tốt. Các lợi ích của việc làm tốt có thể có được bằng cách dâng cúng tiền bạc cho Giáo Hội. Martin Luther không tin tiền bạc có thể giải thoát con người khỏi bị Thiên Chúa trừng phạt vì tội lỗi. Ông đề nghị một cuộc thảo luận về quyền năng và sự vô ích của các ân xá trong Luận thuyết 95 điểm công bố năm 1517. Ngày 31 tháng 10 năm 1517 Luther viết thư cho ĐC Albrecht, Tổng giám mục Mainz và Magdeburg, phản đối việc bán các ân xá, kèm theo một bản “Tranh luận của Martin Luther về quyền lực và hiệu qủa các ân xá”, được biết tới như 95 luận thuyết. Các luận thuyết này không có ý đối đầu với Giáo Hội, nhưng chỉ như là một tranh luận chống lại các thực hành trong Giáo Hội thời đó với giọng điệu tìm hiểu hơn là giáo thuyết. Tuy nhiên, cũng có nhiều luận thuyết có giọng điệu thách thức chẳng hạn luận thuyết 86 hỏi: “Tại sao Đức Giáo Hoàng có của cải giầu sang lớn hơn người giầu nhất là ông Crassus, lại xây vương cung thánh đường thánh Phêrô với tiền của người nghèo thay vì với tiền của chính mình?”.
Martin Luther phản bác câu nói thái quá được gán cho tu sĩ Johann Tetzel: “Vừa khi đồng tiền kêu vang trong hòm quyên, là linh hồn trong luyện ngục nhảy lên thiên đàng”. Ông nhấn mạnh rằng vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội, những người yêu sách rằng các ân xá tha mọi hình phạt cho những người mua và ban cho họ ơn cứu rỗi là sai lầm. Kitô hữu không được nới lỏng việc theo Chúa Kitô vì các bảo đảm giả đối ấy.
ĐC Albrecht đã không trả lời thư chứa đựng 95 luận thuyết của Martin Luther, nhưng duyệt xét và coi chúng là lạc giáo, rồi vào tháng 12 năm 1517 gửi chúng về Roma. Lý do là vì ĐC cần tiền từ việc bán ân xá để thanh toán cho xong việc Đức Giáo Hoàng cho phép Ngài chiếm hưởng lợi tức của hơn một giáo phận. Đức Giáo Hoàng cũng nhúng tay vào vụ này, vì phân nửa số tiền bán ân xá được gửi về xây đền thờ thánh Phêrô.
Chưa tới tháng giêng năm 1518 bạn hữu của Luther đã dịch 95 luận thuyết ra tiếng Đức, cho in và phân phát khắp nơi khiến cho cuộc tranh luận trở thành nổi tiếng hàng đầu thời đó. Chỉ trong vòng hai tuần tài liệu được phổ biến khắp nước Đức, và trong vòng hai tháng nó đã lan sang toàn Âu châu, tới Pháp, Anh và Italia đầu năm 1519. Các sinh viên tuốn đến Wittenberg để nghe Luther giảng dậy. Luther cho in cuốn chú giải thư gửi giáo đoàn Galát, và Các Thánh Vinh. Và năm 1520 cho in ba tác phẩm nổi tiếng nhất: “Cho giới quyền quý kitô của quốc gia Đức”; “Về tình trạng bị giam cầm bên Babilonia của Giáo Hội”; “Về sự tự do của kitô hữu.”
Trong ba năm trời Đức Giáo Hoàng Leo X huy động hàng loạt các thần học gia giáo hoàng và các phái viên chống lại Luther. Trước hết thần học gia dòng Đa Minh Sylvester Mazzolini soạn bản phúc thảo trường hợp lạc giáo chống lại Luther, mà Đức Leo X cho gọi về Roma. Nhưng hoàng tử Frederick III vùng Sassonia thuyết phục ĐGH cho điều tra Luther tại Augsburg, là nơi hoàng đế họp hội nghị. Tháng 10 năm 1518 tại Augsburg trong vụ hỏi cung của ĐHY Cajetan đặc sứ của ĐGH, Luther tuyên bố ông không coi chức Giáo Hoàng là phần của Giáo Hội trong Thánh Kinh, bởi vì giải thích lịch sử của lời tiên tri trong Thánh Kinh kết luận rằng chức Giáo Hoàng là Phản Kitô. Thế là các lời tiên tri liên quan tởi tên Phản Kitô trở thành trung tâm các cuộc tranh cãi. Cuộc khảo cung biến thành cuộc đấu la hét giữa hai bên. Việc đối đầu với Giáo Hội khiến Luther trở thành kẻ thù của Giáo Hoàng. Ban đầu ĐHY Cajetan ra lệnh bắt giữ, nếu Luther không công khai thu hồi các ý kiến của ông. Nhưng ban đêm Luther trốn khỏi thành Augsburg. Tháng giêng năm 1519 tại Altenburg vùng Sassonia Đức Sứ Thần Toà Thánh Karl von Miltitz áp dụng phương pháp hòa dịu hơn, Luther đồng ý vài nhượng bộ vì ĐHY có bà con với hoàng tử Frederick, đồng thời hứa sẽ im lặng, nếu phiá chống đối cũng thinh lặng. Tuy nhiên, thần học gia Joahann Eck nhất định đưa giáo thuyết của Luther ra diễn đàn công khai. Tháng 6 năm 1519 Johann Eck tổ chức cuộc tranh luận với Andreas Karlstadt, bạn của Luther, tại Leipzig và mời Luther lên tiếng. Khẳng định táo bạo nhất của Luther trong cuộc tranh luận đó là văn bản Phúc Âm thánh Mátthêu chương 16 câu 18 không ban cho các Giáo Hoàng quyền giải thích Thánh Kinh và vì thế các Giáo Hoàng cũng như các Công Đồng của Giáo Hội cũng sai lầm. Thần học gia Eck coi Luther là một người lạc giáo, và từ đó nhất quyết đánh hạ Luther.
Ngày 15 tháng 6 năm 1520 ĐGH Leo X công bố sắc chỉ “Exsurge Domine” cảnh cáo ra vạ tuyệt thông, nếu Luther không thu hồi 41 khẳng định khỏi các bút tích của mình, bao gồm cả 95 luận thuyết, nội trong vòng 60 ngày. Mùa thu năm ấy Johann Eck công bố sắc chỉ tại Meissen và các thành phố khác bên Đức. Đức Sứ Thần Karl von Miltitz thử làm môi giới cho một giải pháp, nhưng ngày mùng 10 tháng 12 năm 1520 Luther công khai đốt sắc chỉ và các sắc lệnh khác của ĐGH tại Wittenberg. Trước đó vào tháng 10 Luther đã gửi cho ĐGH một ấn bản cuốn “Về sự tự do của Kitô hữu”. Hậu quả là ngày mùng 3 tháng giêng năm 1521 ĐGH Leo X công bố sắc chỉ “Decet Romanum Pontificem” ra vạ tuyệt thông cho Luther.
Nội vụ cũng được đưa ra trước chính quyền đời. Ngày 18 tháng 4 năm 1521 Luther được lệnh trình diện trước Hội nghị của Đế quốc thánh Roma, do hoàng đế Carlo V triệu tập và chủ sự tại thành phố Worms trên sông Rhein trong các ngày từ 28 tháng giêng cho tới 25 tháng ba năm 1521. Johann Eck đại diện cho Đế quốc lên tiếng như phụ tá của ĐTGM Trier giới thiệu Luther với các bản bút tích của Luther trên bàn, và hỏi đây có phải là các sách vở tài liệu của ông không, và ông có bênh vực các nội dung của chúng không. Luther nhận đó là các tác phẩm của mình, nhưng xin có thời gian suy nghĩ để trả lời câu hỏi thứ hai. Sau khi cầu nguyện và thăm dò ý kiến của bạn bè, ngày hôm sau Luther trả lời: “Trừ phi tôi xác tín bởi chứng tá của Thánh Kinh hay bởi lý trí rõ ràng, vì tôi không tin tưởng nơi Giáo Hoàng cũng như các công đồng, bởi như đã biết rõ là họ thường sai lầm và mâu thuẫn, tôi bị bó buộc bởi Thánh Kinh tôi đã trích dẫn và lương tâm tôi bị Lời Chúa bắt giữ. Tôi không thể và không muốn thu hồi bất cứ điều gì, vì chống lại lương tâm thì không thận trọng và không đúng. Xin Chúa giúp tôi. Amen.”
Trong hơn năm ngày sau đó đã có các cuộc họp để định đoạt số phận của Luther. Hoàng đế Carlo V đưa ra văn bản chung kết Chỉ dụ Worms ngày 25 tháng 5 năm 1521, tuyên bố Luther ngoài vòng pháp luật, cấm các bút tích của ông, và ra lệnh bắt giữ Luther. “Chúng tôi muốn bắt và trừng phạt ông như là kẻ lạc giáo mà ai cũng biết”. Tất cả những ai cho đồ ăn thức uống hay chứa chấp Luther là một tội phạm, và ai giết Luther thì không bị luật pháp trừng trị.
Hoàng tử Frederick dàn xếp để Luther biến mất như thể bị bắt cóc và đưa ông tới ẩn náu tại Wartburg. Tại đây Luther dịch Thánh Kinh Tân Ước ra tiếng Đức. Từ đó Luther viết nhiều khảo luận chỉ trích việc kiếm tìm các ân xá và đi hành hương cũng như nhiều điểm giáo lý: như tư tưởng coi thánh lễ là hiến tế là tôn thờ ngẫu tượng; khước từ việc bắt buộc xưng tội, khuyến khích việc xưng tội và giải tội riêng tư, vì mọi kitô hữu đều là người giải tội; các đan sĩ và tu sĩ có thể bẻ gẫy lời khấn mà không có tội gì, vì các lời khấn là bất hợp pháp và là cố gắng vô ích để được cứu rỗi; tên Phản kitô là quyền bính giáo hoàng vv…
Bạn của Luther Andrreas Karkstadt được một cựu tu sĩ Agostino là Gabriel Zwilling khởi xướng một phong trào cải cách triệt để, quá khích, vượt quá mọi dự tính của Luther. Nó làm nảy sinh ra các vụ lộn xộn, bao gồm cả vụ nổi loạn của các tu sĩ dòng thánh Agostino Augsburg chống lại tu viện trưởng, đập phá các tượng ảnh trong các nhà thờ, và tố cáo các quan tòa…
Năm 1525 Luther lấy Katharna von Bora, một trong số 12 nữ tu Xitô thuộc tu viện Nimbschen, mà ông đã giúp trốn khỏi tu viện năm 1523. Trong các năm 1525-1529 Luther thiết lập và củng cố các cơ cấu của Giáo Hội mới, viết sách giáo lý nhỏ cho tín hữu, sách giáo lý lớn cho các mục sư, sáng tác thánh nhạc… Giáo Hội Tin Lành, hay Giáo Hội Cải Cách nảy sinh từ đó, lan nhanh tại Đức và nhiều nước Âu châu trong đó có Thụy sĩ với các hoạt động của Calvin và Zwingli.
Sau đây là các nét chính yếu của Giáo Hội Tin lành hay Cải cách. Thứ nhất, các điểm tham chiếu là: sự công chính hoá của đức tin, chỉ cần đức tin là đủ cho ơn cứu rỗi; chỉ có Thánh Kinh. Vì thế Giáo Hội Tin Lành khước từ quyền của Đức Giáo Hoàng. Mỗi người có thể đọc và giải thích Thánh Kinh. Thứ hai, không có hàng giáo sĩ, chỉ có các hướng dẫn viên tinh thần gọi là các mục sư. Thứ ba, chỉ có hai bí tích: Rửa Tội và Thánh Thể. Tuy Luther vẫn tin vào sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích, nhưng các đồ đệ của ông không tin. Thánh lễ chỉ là lễ nghi tưởng niệm bữa tiệc chiều của Chúa, bánh và rượu được làm phép không phải là Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng chỉ là bánh và rượu thôi. Thứ tư, lễ nghi phụng vụ Chúa Nhật dựa trên các bài đọc thánh kinh được mục sư giải thích. Thứ năm, các tín hữu tin lành cũng tuyên xưng đức tin với Kinh Tin Kính. Thứ sáu, họ không tôn sùng Đức Maria và không coi Đức Maria là mẹ Thiên Chúa. Họ cũng không sùng kính các Thánh và trong các nhà thờ tin lành không có các ảnh tượng.
Hiện nay Giáo Hội Tin Lành chia thành nhiều nhánh khác nhau và bao gồm hàng ngàn giáo phái tự trị.
3 . Cuộc ly khai của Giáo Hội Anh Giáo
Cuộc ly khai của Giáo Hội Tin Lành hay Giáo Hội Cải Cách do Martin Luther khởi xướng kéo dài chưa được bao lâu, thì năm 1534 lại xảy ra một vụ ly khai mới: đó là vụ ly khai của Anh Giáo, do vua Enricô VIII khởi xướng.
Vua Enricô VIII sinh năm 1491 là hoàng tử thứ hai con vua Enricô VII, và là vị vua thứ hai thuộc triều đại nhà Tudor. Chỉ có ba trong số 6 người anh em của Enricô sống sót là Arturo hoàng tử vùng Galles, Marguerita hoàng hậu Êcốt và Maria hoàng hậu Pháp. Năm 1494 Enrricô trở thành công tước York. Năm 1501 Enricô hiện diện trong đám cưới của anh cả là Arturô với Caterina Aragona, công chúa Tây Ban Nha, khi đó hai người mới 15 và 16 tuổi. Nhưng Arturo chết ít lâu sau đó vì bị nhiễm trùng, và Enricô mới 11 tuổi trở thành người nối ngôi cha.
Vì muốn kết thúc một giao ước hôn nhân giữa Anh quốc và Tây Ban Nha, vua Enricô VII giàn xếp hôn nhân giữa con mình và con dâu là Caterina Aragona. Nhưng để được như thế cần phải có phép chuẩn của ĐGH Giulio II, mặc dù hôn nhân trước chưa hoàn thành, nhưng cả hai bên đều muốn có phép chuẩn của ĐGH để loại trừ mọi nghi ngờ liên quan tới sự hợp pháp của hôn nhân. Vì bị hoàng hậu Isabella, mẹ của Caterina thúc giục, ĐGH Giulio II công bố sắc chỉ ban phép chuẩn. Nhưng năm 1505 vua Enricô VII không hứng thú đối với liên minh với Tây Ban Nha nên hôn nhân đã không được cử hành trong các thời điểm dự định. Khi vua cha qua đời năm 1509, Enricô lên ngôi lúc mới 18 tuổi với tên gọi là Enricô VIII. Nhà vua bắt đầu cải tổ guồng máy cai trị, bằng cách giảm thiểu quyền lợi của các người thượng lưu có chức lớn, và dựa trên sự ủng hộ của giới quyền quý tỉnh nhỏ, tức các đại điền chủ, là những người tuy không thuộc giai cấp thượng lưu, nhưng có các tước hiệu và quyền lợi đặc biệt của giới thượng lưu. Chín tuần sau, do sự thúc bách của triều đình Tây Ban Nha Enricô VIII thành hôn với Caterina, đã được đính hôn với mình trước đó. ĐC William Warham, TGM Canterbury, nghi ngờ sự hợp pháp của hôn nhân, mặc dù đã có phép chuẩn trước đó và các lời thề lập đi lập lại của Caterina là hôn nhân trước với hoàng tử Arturô đã không bao giờ hoàn thành, vì hai người đã không ăn ở với nhau. Tuy nhiên, lễ nghi đội triều thiên đăng quang hai người đã được cử hành ngày 24 tháng 6 cùng năm.
Là người cao lớn đẹp trai, rất thể thao, vui vẻ và hào hiệp, được định nghĩa là “hoàng tử đẹp nhất của Kitô giáo” vua Enricô VIII có một nền văn hóa nhân bản rộng rãi, hiểu biết thông thạo các thứ tiếng Latinh, Tây Ban Nha và Pháp, lại ưa thích thần học, vì đã nhận được nền giáo dục tôn giáo từ bé, và là con trai thứ hai nên đã được chỉ định làm giáo sĩ. Ngoài ra nhà vua cũng có tài âm nhạc. Ban đầu nhà vua chống lại phong trào Cải Cách do Luther khởi xướng nên được ban tước hiệu là “ông hoàng bảo vệ Giáo Hội”.
Nhưng vấn đề nỗi dõi tông đường nảy sinh và theo đuổi nhà vua suốt đời. Hoàng hậu Caterina mang thai lần đầu tiên một người con trai nhưng chết năm 1510; đứa con trai thứ hai sinh năm 1511 chết sau hai tháng. Trong hai năm đầu của triều đại quyền bính được thi hành bởi ĐC Richard Foxe, Giám Mục Winchester và ĐC William Warham. Từ năm 1511 trở đi quyền bính nằm trong tay ĐHY Thomas Wolsey, là người có ảnh hưởng lớn trên nhà vua. Vua Enricô VIII gia nhập Liên Minh Thánh, do ĐGH Giulio II phát động nhằm loại trừ chính sách bành trướng của vua Louis XII của Pháp. Thuộc Liên Minh cũng có hoàng đế Massimiliano I và vua Ferdinando II vua Tây Ban Nha. Năm 1514 vua Ferdinando II bỏ Liên Minh và giải hoà với Pháp. Biến cố vua François I lên ngôi khiến cho hai nước Anh và Pháp lại có các lập trường đối nghịch nhau. Năm 1516 hoàng hậu Caterina sinh công chúa Maria khiến cho vua Enricô VIII hy vọng mình sẽ có con trai nối ngôi. Năm 1516 vua Ferdinando II qua đời và người cháu là Carlo V lên ngôi cũng là cháu của hoàng hậu Caterina. Năm 1519 vua Massimiliano I cũng qua đời. Các ông Hoàng bầu vua Carlo V làm hoàng đế của Đế quốc Roma thánh. Sự cạnh tranh giữa vua François I của Pháp và hoàng đế Carlo V của Tây Ban Nha khiến cho vua Enricô VIII trở thành kim của cán cân chính trị Âu châu. Cả hai bên đều tìm liên minh với Anh quốc, nhưng sau năm 1521 ảnh hưởng của Anh suy giảm bên Âu châu, vua Enricô VIII liên minh với hoàng đế Carlo V trong chiến tranh với Pháp.
Vua Enricô VIII đợi mãi mà không có con trai nên lo sợ cho triều đại của mình, vì dân Anh không muốn bị cai trị bởi một hoàng hậu. Cho tới nay chỉ có công chúa Maria là sống sót. Truớc đó nhà vua cũng đã có nhiều người yêu trong đó có Maria Bolena và Elizabeth Blount. Con trai của bà Elizabeth là Henry Fitzroy chết năm 17 tuổi. Trong khi có người nói là hai con của bà Bolena là Caterine Carey và Henry Carey rất giống nhà vua là con của vua Enricô VIII, nhưng nhà vua không làm gì để thừa nhận chúng như con riêng của mình.
Năm 1526 sức khỏe của hoàng hậu Caterina suy giảm và bà bắt đầu vào thời kỳ tắt kinh, nhà vua bắt đầu ve vãn em gái của Maria Bolena là Anna Bolena, được giáo dục bên Pháp, đã là mỹ nữ của hoàng hậu Caterina và đã lấy Henry Percey Phó quận công Northumberland. Vua Enricô muốn có hoàng tử kế vị nên nghĩ với việc xin huỷ bỏ hôn nhân với hoàng hậu Caterina dựa trên hôn nhân trước của hoàng hậu với người anh đã chết. ĐHY Wolsey và ĐTGM William Warham bắt đầu cho điều tra, nhưng nhận thấy khó mà qua mặt giáo luật. Năm 1527 Vua Enricô yêu cầu thẳng lên Toà Thánh. Viên bí thư của nhà vua là William Knight cho rằng sắc chỉ của ĐGH Giulio II đã có được là nhờ một sự đánh lừa, vì thế nên không có giá trị. Do đó nhà vua cho rằng phép chuẩn này không có giá trị và hôn nhân với hoàng hậu Caterina cũng không có giá trị Năm 1527 vua Enricô cũng xin ĐGH Clemente VII ban phép chuẩn cho nhà vua thành hôn với bà Anna Bolena. Nhưng câu chuyện lại liên quan tới lợi lộc của hoàng gia Tây Ban Nha, vì Carlo V, hoàng đế của Đế quốc Roma thánh, là cháu của hoàng hậu Caterina. Ảnh hưởng của hoàng đế khiến cho ĐGH Clemente VII từ chối lời xin của vua Enricô VIII, không huỷ bỏ sắc chỉ của ĐGH Giulio II. Vì thật ra ĐGH Clemente cũng lo sợ gia đình của hoàng hậu Caterina và hoàng đế Carlo V nổi giận với mình.
Tuy nhiên, lương tâm bối rối hợp với sức quyến rũ của bà Anna Bolena khiến cho vua Enrico VIII nhất quyết loại trừ hoàng hậu Caterina. Và đây là lý do làm nảy sinh ra Anh giáo, khi vua Enricô VIII bẻ gẫy liên hệ với Giáo Hội Công Giáo Roma, không thừa nhận quyền của ĐGH nữa, và tuyên bố mình là giáo chủ tối cao của Giáo Hội tại Anh.
Năm 1529 quốc hội Anh nhóm họp để thảo luận việc huỷ bỏ hôn nhân cũ, quy tụ mọi người ước mong có một cuộc cải cách nhưng đã không có sự đồng thuận liên quan tới hình thức thực hiện. Nhiều người chống lại đặc quyền của hàng giáo sĩ có thể triệu vời giáo dân ra trước toà án đạo. Có người chịu ảnh hưởng của phong trào cải cách của Luther chống lại thần học công giáo. Cũng có những người ủng hộ quyền tối thượng của nhà vua trên Giáo Hội của Anh quốc. Thomas More thay thế ĐHY Wolsey vừa muốn có cải cách vừa muốn có các luật lệ mới chống lại lạc giáo.
Thủ tướng mới của vua Enricô VIII là Thomas Cromwell, dân biểu quốc hội và là người theo Tin Lành, biết phải lèo lái quốc hội ra sao để nhà vua có quyền tối thượng trên Giáo Hội. Năm 1530 khi một uỷ ban gồm các nhà luật pháp và giáo sĩ cho biết không thể cho phép ĐTGM hành động chống lại một lệnh cấm của ĐGH, nhà vua bắt đầu bách hại giới giáo sĩ. Sau khi kết án ĐHY Wolsey, vua Enricô tố cáo hàng giáo sĩ “tội vâng lời các thế lực nước ngoài” với mục đích bắt ép họ phải đồng ý huỷ bỏ hôn nhân cũ của ông với hoàng hậu Caterina. Đây là luật có từ năm 1392. Sau khi tố cáo các vị bênh vực hoàng hậu Caterina nhà vua trải dài việc tố cáo chống lại tất cả hàng giáo sĩ và bắt phải nộp 100.000 bảng Anh trong hội nghị của hàng giáo sĩ nhóm tại Canterbury để được nhà vua tha tội. Hàng giáo sĩ chấp nhận bắt đầu trả vào ngày 24 tháng giêng năm 1531, nhưng xin được kéo dài trong vòng 5 năm. Nhà vua từ chối. Khi đó hàng giáo sĩ yêu cầu có các bảo đảm trước khi nộp tiền, nhà vua từ chối mọi điều kiện, nhưng chấp nhận cho kéo dài việc trả tiền trong 5 năm và thêm vào 5 khoản mà hàng giáo sĩ Anh phải chấp nhận: Thứ nhất hàng giáo sĩ thừa nhận vua như người bảo hộ duy nhất và là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội và hàng giáo sĩ Anh quốc. Thứ hai, nhà vua có nhiệm vụ tinh thần. Thứ ba, các đặc ân của Giáo Hội bị hủy bỏ, nếu vi phạm các quyền lợi của nhà vua và luật lề của vương quốc. Thứ tư, vua tha tội cho hàng giáo sĩ vi phạm luật cấm vâng lời các thế lực và nhân vật nước ngoài. Thứ năm, cả các giáo dân cũng được tha tội này. Trong quốc hội ĐC John Fischer, đã là người ủng hộ hoàng hậu Caterina và hàng giáo sĩ, thêm vào khoản thứ nhất các lời này: “Nếu lời Chúa cho phép”. Trong hội nghị ĐTGM William Warham mở đầu cuộc thảo luận, nhưng khi thấy mọi người đều thinh lặng, thì nói: “Ai thinh lặng là đồng ý”. Hội nghị chấp nhận 5 khoản do nhà vua đưa ra và nộp tiền phạt ngày mùng 3 tháng 3 năm 1531. Không ai dám phản đối vì sợ bị kết án là phản bội và bị tử hình.
Việc ly khai với quyền bính của ĐGH xảy ra từ từ. Năm 1532 thủ tướng Cromwell đưa ra trước quốc hội một thỉnh cầu gọi là “Yêu cầu chống lại Trật tự của thánh lễ” kê khai ra 9 lời than phiền chống lại Giáo Hội bao gồm cả việc lạm dụng quyền bính và quyền ra luật mà không có sự đồng ý của Hội nghị giáo sĩ.
Ngày mùng 10 tháng 5 năm 1532 nhà vua yêu cầu Giáo Hội khước từ quyền ra luật. Hàng giáo sĩ ký nhận ngày 15 tháng 5. Qua đó Giáo Hội thừa nhận quyền tối thượng của nhà vua trên Giáo Hội, và không có quyền ra luật mà không có phép của nhà vua. Đây đã là hành động huỷ bỏ hoàn toàn chủ thể làm luật của Giáo Hội. Việc quy phục này được quốc hội chấp nhận năm 1534 và năm 1536. Sự kiện này khiến cho Thomas More là một vị quan công giáo, từ chức, nhường chính trường cho Cromwell làm chủ.
Tiếp theo đó là một loạt các luật quốc hội. Luật “Giữ lại các lợi tức hàng năm vô điều kiện” cấm hàng giáo sĩ trả hơn 5% lợi tức cho Giáo Hội Roma. Nó đã gây ra các phản đối mạnh mẽ, và nhà vua phải hiện diện ba lần và với sự đe đọa của quốc hội nó mới được bỏ phiếu thông qua. Luật này cũng đe dọa rằng nếu các nhà thờ chính toà từ chối việc chỉ định các Giám Mục từ phía nhà vua, thì sẽ có nguy cơ bị tố cáo là thuộc các quyền bính nước ngoài và bị trừng phạt.
“Luật hạn chế các lời kháng án” cấm không được kêu về Roma liên quan tới các vấn đề giáo hội. Luật khẳng định rằng: “Vương quốc Anh là một đế quốc, như được chấp nhận trên thế giới và nó được cai trị bởi một thủ lãnh tối cao, là nhà vua, có tước hiệu và hàng vương giả của triều thiên hoàng đế của đất nước, một ngoại giao đoàn, một tổng thể cá nhân thuộc mọi điều kiện và tầng lớp, nhân danh tinh thần tu đức và tinh thần đời, có bổn phận vâng phục nhà vua một cách tự nhiên và khiêm tốn, sau Thiên Chúa”. Ngoài ra, luật cũng nhấn mạnh rằng Anh quốc là một quốc gia độc lập trên tất cả mọi phương diện.
Sau cùng năm 1534 vua Enricô VIII ban hành “Luật về quyền tối thượng” khiến cho nhà vua trở thành “Thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh, loại trừ tất cả mọi thói quen, tập tục, luật lệ, quyền bính hay các điều luật đến từ nước ngoài. Tuớc hiệu này sẽ được hoàng hậu Elíabeth I đổi thành “Thống đốc tối cao của Giáo Hội Anh”.
Sau một tuần trăng mật tại Pháp vua Enricô VIII và bà Anna Bolena thành hôn vào tháng giêng năm 1533 tại nhà thờ chính toà Wesminster. Lễ thành hôn được dễ dàng vì cái chết của ĐTGM Warham, là người chống lại hôn nhân của nhà vua. ĐTGM Thomas Cranmer lên thay thế và là người đồng ý huỷ bỏ hôn nhân trước của nhà vua với hoàng hậu Caterina. Ba tháng sau hoàng hậu Anna sinh một công chúa sau này sẽ là hoàng hậu Elisabeth I. Tháng 7 năm 1533 ĐGH Clemente VII ra vạ tuyệt thông cho nhà vua và ĐTGM Cranmer. Ngày 17 tháng 12 năm 1538 nhà vua bị ĐGH Paolo III ra vạ tuyệt thông lần thứ hai. Vạ tuyệt thông này cũng sẽ được ra cho hoàng hậu Elisabeth I, khi tình hình cuộc ly giáo không thể cứu vãn được nữa. Trong cùng năm 1533 “Luật các của đầu mùa và thuế thập phân” khiến cho mọi tiền thuế của Giáo Hội trả cho ĐGH chạy vào quỹ của nhà vua. Nó liên quan tới “đồng tiền thánh Phêrô và các khoản tha” mà giới điền chủ đóng góp cho ĐGH. Luật này nhấn mạnh rằng “Anh quốc không có thủ lãnh nào khác ngoài Thiên Chúa và Đức vua và triều thiên hoàng đế của vua Enricô đã được bảo toàn khỏi các vụ tiếm quyền và các thuế khóa bất công và ít bác ái của Đức Giáo Hoàng.”
Để tránh tất cả mọi chống đối các điều này năm 1534 Quốc hội bỏ phiếu “Luật phản bội” coi việc khước từ quyền tối thượng của nhà vua là phản bội có thể bị tử hình. Sau cùng năm 1536 Quốc hội bỏ phiếu “Luật chống lại quyền bính của Đức Giáo Hoàng” huỷ bỏ phần còn lại của quyền giáo hoàng, nghĩa là quyền đưa ra một phán quyết liên quan tới Thánh Kinh trên nước Anh.
Việc bẻ gẫy với Giáo Hội Roma vẫn chưa đích thật là một cuộc Cải Cách nảy sinh với việc phổ biến các tư tưởng mới. Các ý kiến của Martin Luther và các đồ đệ đã được biết tới và thảo luận nhiều bên Anh quốc, nơi khuynh hướng thần học triệt để vẫn luôn hiện diện. Nó đuợc biểu hiện với phong trào Lollardi, gồm những người được gợi hứng từ các bút tích của John Wycliff, dịch giả Thánh Kinh, nhấn mạnh quyền ưu tiên của Thánh Kinh. Tuy bị đàn áp nhưng phong trào này vẫn tồn tại và tìm cách thay đổi Giáo Hội bằng cách dành chỗ nhất cho Lời Chúa và chỉ coi bí tích Thánh Thể là một nghi lễ tưởng niệm đơn sơ. Họ bi ảnh hưởng bởi các tư tưởng của Luther chủ trương chỉ có Thánh Kinh và việc công chính hóa nhờ đức tin chứ không nhờ các hành động tốt. Người ta cũng chỉ nhận ba bí tích Rửa Tội, Thánh Thể và Giải Tội. Năm 1536 và 1538 đã có nhiều điều khác được thêm vào trong đó có việc huỷ bỏ nhiều ngày lễ bị coi như dịp cho các thói xấu và sự lười biếng phát triển. Các dâng cúng và đốt nến trước các hình tượng, cũng như các cuộc hành hương đều bị cấm cản. Trong nhiều trường hợp các ảnh tượng bị đập phá hay đốt cháy, viện cớ chúng diễn tả một niềm tin mê tín dị đoan; tín hữu chỉ đuợc mua các sách Thánh Kinh bằng tiếng Latinh hay bằng tiếng Anh.
Năm 1534 Cromwell viếng thăm các đan viện để lượng định gia tài tôn giáo trước khi tịch thu. Viện cớ các đan viện là nơi các đan sĩ nam nữ có cuộc sống tính dục vô luân và các hoạt động tài chánh bất hợp pháp, ông hủy bỏ và tịch thu các đan viện và đất đai phụ thuộc. Vào thời đó Giáo Hội sở hữu từ một phần năm tới một phần ba đất đai trên toàn nước. Năm 1536 triều đình huỷ bỏ các đan viện nhỏ trước. Nhà vua đã sử dụng số tiền có được để xây các chiến lũy phòng thủ chống các cuộc xâm lăng. Tất cả đất đai của các tu viện thuộc nhà vua. Nhưng dân chúng nổi loạn chống lại hành động này của triều đình và tấn công quan quân. Năm 1539 cả các đan viện lớn cũng bị huỷ bỏ. Nhiều đan viện chịu trận, nhiều đan viện khác tìm cách trả tiền để sống còn. Đan sĩ các đan viện bị đóng cửa tìm tới các đan viện lớn hơn còn mở cửa. Một số khác trở thành linh mục triều. Những người chống đối bị giết. Việc huỷ bỏ quyền của ĐGH đã gây ra các bất đồng và bạo lực. Các vụ đập phá tượng ảnh thánh, các cãi vã phản đối và hành động bạo lực xảy ra hàng ngày, nhưng đều bị dấu nhẹm nhà vua. Năm 1538 khi biết chuyện, vua Enricô VIII ra luật cấm tranh luận liên quan tới Thánh Thể, và cấm các linh mục lập gia đình, nếu không sẽ bị xử tử. Năm 1539 quốc hội bỏ phiếu “Sáu Khoản” xác nhận kinh tin kính công giáo, việc truyền phép, luật độc thân linh mục, tầm quan trọng của việc xưng tội riêng, và các hình phạt cho tất cả nhũng ai từ chối các điều này. Với “Luật tiến tới đích thật của tôn giáo” ban hành năm 1543 vua Enrricô hạn chế quyền đọc Thánh Kinh cho giới quyền quý.
Năm 1547 vua Enricô VIII qua đời, vua Eduardo VI lên ngôi khi mới 9 tuổi và là một thiếu niên đuợc giáo dục trong niềm tin Tin Lành. Dưới quyền nhiếp chính của người bác là Edwart Seymour các luật lệ chống lại tượng ảnh được áp dụng triệt để. Tất cả mọi thứ tuợng ảnh, thánh tích, kể cả các kính mầu trong các nhà thờ đều bị đập phá, làm hư hại, các thánh giá, các lan can, các cửa sắt đều bị phả huỷ, các chuông nhà thờ bị gỡ bỏ. Các phẩm phục thánh bị bán hay đốt cháy. Các bình xin tiền bị nung chảy hay bán đi. Luật độc thân linh mục bị hủy bỏ. Cấm các cuộc rước kiệu; huỷ bỏ ngày thứ tư lễ tro và Chúa Nhật lễ lá. Hủy bỏ các hội hát lễ mồ. Năm 1550 các bàn thờ bằng đá được thay thế bằng các bàn thờ bằng gỗ thường. Năm 1551 chức giám mục được rập khuôn với việc chỉ định các mục sư. Cuộc cải cách từ đó tiến rất nhanh.
Sau đây là vài nét chính yếu về Giáo Hội Anh giáo. Thứ nhất, Thánh Kinh là nền tảng đức tin kitô chứa đựng tất cả những gì cần thiết cho ơn cứu rỗi. Thứ hai Kinh Tin Kính là chứa đựng những điều cần thiết và đủ cho việc trình bầy giáo lý kitô. Thứ ba, các bí tích Rửa Tội và Thánh thể là các phương thế bề ngoài hữu hình và đích thật của ơn thánh Chúa. Thứ tư, việc kế vị các tông đồ liên tục và được các giáo hội chính thống và công giáo cổ thừa nhận. Thứ năm, nhà vua là thủ lãnh của Giáo Hội. Thứ sáu, tuy khước từ quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng người kế vị thánh Phêrô, nhưng Anh giáo vẫn duy trì hàng giáo phẩm, có Giám Mục, linh mục và phó tế, nhưng không có luật buộc độc thân. Thứ bẩy, phụng vụ anh giáo rất giống phụng vụ công giáo. Liên quan tới Đức Maria Anh Giáo không chập nhận các tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội và Hồn xác lên trời.
Các Giáo Hội Anh giáo quy tụ trong tổ chức Liên hiệp anh giáo và nhóm họp trong Hội nghị Lambeth do ĐTGM Canterbury chủ tọa. Từ khi phụ nữ được phép làm linh mục có nhiều Giám Mục và linh mục Anh giáo xin tái gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Vào thế kỷ XVIII sau cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ các Giáo Hội Anh Giáo Hoa Kỳ và Canada trở thành các Giáo Hội tự trị có các Giám Mục riêng và các cơ cấu tự quản. Nó trở thành kiểu mẫu của các Giáo Hội Anh Giáo bên Phi châu, Australia và vùng Thái Bình Dương. Giáo Hội Anh Giáo bị chia rẽ trầm trọng, sau khi một phụ nữ và một người đồng tính luyến ái được phong chức Giám Mục. Sự kiện này khiến cho các Giáo Hội Anh Giáo Phi châu phản đối rất mạnh mẽ và làm cho viễn tượng tìm về hiệp nhất gặp thêm chướng ngại. Một trong những lý do là vi Anh giáo không có một quyền bính trung ương, cũng giống như Giáo Hội Chính Thống.
Vào đầu thế kỷ XX các Giáo Hội Kitô cảm thấy nhu cầu đại kết nên thành lập Hội Đồng đai kết các Giáo Hội Kitô quy tụ 349 Giáo Hội thành viên gồm mọi khuynh hướng chính thống, tin lành, anh giáo và nhiều cộng đoàn kitô khác. Giáo Hội Công Giáo không là thành viên, nhưng hiện diện trong các uỷ ban đối thoại thần học. Phong trào đại kết đã được đẩy mạnh sau Công Đồng Chung Vaticăng II, đặc biệt dưới triều đại của ĐGH Gioan Phaolô II với tông thư “Ut unum sint Để chúng nên một”. Cuộc đối thoại song phương của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội Kitô anh em vẫn tiếp tục trong tình bác ái và chân lý, nhưng còn nhiều khó khăn cần được vượt thắng trước khi tìm lại được sự hiệp nhất trọn vẹn.
Linh Tiến Khải
Có thể bạn muốn xem
Chuyện về ứng xử văn hóa
”Chúng tôi thời hậu chiến”
Về tập truyện ngắn THỦY HỒ của TỐNG NGỌC HÂN
Nữ tác giả 9X ra mắt sách định hình phong cách sống cho bạn trẻ
Thế giới khác 2: Tìm nhau từ hai cõi âm – dương
Vị Phật ở chung nhà
Nhà văn mới nổi và biên tập viên Cô gái văn chương
Canada: trộm cậy tủ, lấy số sách quý trị giá 55.000USD
Lịch Sử Đảng Phái