“Đạo Đức Kinh” là tác phẩm kinh điển của nhà tư tưởng Lão Tử, được các học phái Đạo gia thời Xuân Thu Chiến Quốc tôn là điển tịch sáng lập Đạo gia. Trong “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử nói rất nhiều câu đơn giản nhưng lại vô cùng hữu ích, khai sáng tâm linh cho người đọc về mối quan hệ giữa Trời, Đất và Con người. Trong đó, 3 câu dưới đây được đánh giá là đáng thưởng thức nhất:
Câu thứ nhất
“Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”
Tạm dịch:
Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên
Sự vận hành của Trời và Đất là gần với Tự nhiên nhất. Cá bơi trong nước, chim bay trên trời, hoa nở hoa rơi, mặt trời và mặt trăng luân phiên nhau, bốn mùa thay đổi… Vạn vật trong Trời Đất tựa hồ như đều đã được một lực lượng an bài. Hơn nữa, hết thảy sự an bài này đều hết sức có trật tự.
Cá sẽ không nghĩ: “Ta vì sao không thể bay trên bầu trời?” và chim cũng sẽ không nghĩ: “Ta vì sao không thể bơi trong nước?” Mùa đông qua đi sẽ không tới mùa hè, và mùa thu cũng không thay thế được vị trí của mùa xuân… Cho nên, con người cần sống thuận theo Đất, thuận theo Trời, thuận theo Đạo. Lão Tử giảng con người trước tiên phải biết kính sợ Trời Đất.
Trời, Đất và con người là nhất thể và có căn nguyên cuối cùng là Đạo. Con người ngàn vạn lần không thể vì thỏa mãn dục vọng của bản thân mà ra sức phá hư trật tự hài hòa của Trời Đất. Bởi vì, một khi Trời không yên, Đất không tĩnh thì chịu tổn hại nhất vẫn là con người.
Câu thứ hai
“Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ. Sủy nhi duệ chi, bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. Phú quý nhi kiêu, tự di kì cữu. Công toại thân thối, thiên chi đạo dã.”
Tạm dịch:
Tích lũy cho đầy không bằng dừng lại đúng lúc. Nhuệ khí nếu quá cường thịnh thì không thể bảo trì được lâu dài. Trong nhà vàng ngọc có chất cao như núi thì cũng không ai có thể giữ nổi. Giàu sang mà thêm kiêu ngạo là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo Trời.
Thiên Đạo tuần hoàn một cách hoàn hảo. Con người có “sinh, lão, bệnh, tử”, vạn vật có “thành, trụ, hoại, không”. “Thành, trụ, hoại, không” là thuật ngữ dùng trong Phật giáo. “Thành” là chỉ sự vật xuất hiện. “Trụ” là chỉ sự vật phát triển phồn thịnh trong một giai đoạn thời gian. “Hoại” là bắt đầu đi xuống dốc. “Không” là tất cả về cát bụi. Vạn vật nơi thế gian, không gì là không như vậy.
Con người muốn thủ giữ sự cương mãnh, nhưng cương thì dễ gẫy. Con người muốn lưu giữ tài sản nhưng giàu là không kéo dài nhiều đời. Con người muốn duy trì quyền lực, nhưng quyền lực là không thể được lâu dài mãi.
Lão Tử khuyên mọi người phải “trống rỗng”: Trống rỗng mới có thể chứa được ngoại vật, do đó không được ôm giữ, không được chiếm hữu. Trong “Luận Ngữ” có chép, Tăng Sâm khen ngợi Nhan Hồi: “Hữu nhược vô, thật nhược hư” (tạm dịch: Có mà như không, đầy mà như trống rỗng). Trống rỗng mới có thể dung nạp được hết thảy, mới không gây ra oán thù. Trống rỗng mới có thể không luyến tiếc quyền lực, nên bỏ liền bỏ, nên đi liền đi.
Phải có mức độ: Trống rỗng là cảnh giới, còn có mức độ lại là công phu. Đối với người thế gian mà nói, giữa người với người là có ranh giới, không thể mạo phạm. Đối với việc lấy hay bỏ vật chất mà nói, chỉ lấy cái cần thiết, không lấy cái ham muốn. Đối với con người và tự nhiên mà nói, Trời Đất có cái tận mỹ mà chẳng nói, chỉ có thể quan sát từ xa mà chẳng thể khinh nhờn, đùa cợt.
Nên biết dừng: Trong “Xích Bích phú”, Tô Đông Pha viết: “Thiên đích chi gian, vật các hữu chủ, cẩu phi ngô chi sở hữu, tuy nhất hào nhi mạc thủ. Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt. . . Thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt, thị tạo vật giả chi vô tẫn tàng dã.” tức là, ở trong trời đất, vật đều có chủ, nếu không phải của mình, thì một sợi tơ cũng không được lấy. Duy chỉ có gió mát trên sông, trăng sáng trên núi… thì cứ mặc sức lấy, cứ dùng chẳng hết, là kho tàng vô tận của tạo hóa. Do đó, mỗi người đều cần phải biết dừng.
Câu thứ ba
“Cố vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn.”
Tạm dịch:
Hết thảy sự việc, có lúc thấy là bị tổn thất, nhưng trái lại lại có lợi ích, có lúc thấy có lợi ích nhưng trái lại lại bị tổn thất.
Con người hiện đại ngày nay dường như rất sòng phẳng. Tôi làm cho anh bao nhiêu việc, anh trả cho tôi bao nhiêu tiền. Bảo một người làm một việc nào đó, người ấy nhất định phải hỏi lợi ích thế nào? Hễ nơi nào “văn minh vật chất” tràn tới, thì tất cả đều lấy lợi ích hiện thực làm tiêu chuẩn để đánh giá tốt xấu. Không có lợi ích rõ ràng, thì có đáng làm không? Hết thảy đều là thiển cận như vậy!
Người xưa vốn rất coi trọng sự cân bằng, lâu dài và hài hòa trong tổng thể. Bất kể sự việc gì cũng có hai mặt âm dương, dương tăng trưởng thì âm tiêu hao, âm tiến thì dương thoái. Vấn đề mấu chốt không phải là dương chiếm bao nhiêu, âm chiếm bao nhiêu thì mới thích hợp, mà là âm dương cân bằng mới là phù hợp nhất với Đạo của Trời Đất.
Đôi khi tạm thời có lợi, nhưng phá hoại cân bằng âm dương, đối với sự ổn định của tương lai có ảnh hưởng tiêu cực vô cùng to lớn. Đôi khi tạm thời chịu tổn thất, nhưng lợi cho duy trì cân bằng âm dương, thì đối với sự hài hòa trong tương lai có tác dụng thúc tiến rất to lớn. Cho nên, các bậc Thánh hiền thời cổ đại thường không nói lợi thế nào, mà thường nói “cát” (may mắn), nói phúc. “May mắn” và “phúc lành” coi trọng hiệu quả tích lũy lâu dài, mà không chú trọng được mất trước mắt. Cũng bởi vậy mà người xưa thường nói “cát nhân” và “thiên tướng”. Người có thể tích đức làm việc thiện, thuận thiên đạo sẽ được Trời bảo hộ.
Căn bản của “Liễu Phàm tứ huấn” của Viên Liễu Phàm đời Minh, chính là lời thiền sư Vân Cốc ở chùa Tê Hà răn dạy ông: “Mệnh do kỷ lập, phúc tự kỷ cầu” (tạm dịch: Mệnh do mình tạo nên, phúc do mình tìm cầu được). “Kỷ lập” ở đây không phải là tự mình làm bừa, mà là có thiên mệnh, thiên mệnh này chính là “Thiện”. Cái gốc của “Kỷ lập” chính là đức, chính là thiện.
Lão Tử giảng: “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân” (tạm dịch: Đạo Trời không thân với ai, mà thường ở chỗ người Thiện”. Các bậc thánh nhân, người sáng lập tôn giáo trong thiên hạ đều dạy con người một chân lý rằng, tích đức hành thiện mới được may mắn, mới có phúc lành.
An Hòa /trithuc.vn
Có thể bạn muốn xem
Truyện ngắn: “Ván thế” – Võ Thị Xuân Hà
Cuộc cách mạng ngược trong khoa học
Ngày Đòi Nợ
“Gia tài” lớn của nhà thơ Vũ Quần Phương
Hạt cát trong mắt – Rabindranath Tagore
Tần Thủy Hoàng có thực sự là “Tên bạo chúa”?
Người Vô Hình
Về tập truyện ngắn THỦY HỒ của TỐNG NGỌC HÂN
Chùm thơ của Trương Công Tưởng