“Chỉ cần qua dặm trang sách, Di Li đưa người ta từ Việt sang Nhật, từ Osaka tới Kobe, từ ngoài mưa vào trong bếp, cho người ta biết lịch sử ăn thịt của người Nhật, và khoa học hóa tuổi thọ của họ, hầu thỏa mãn trí tò mò của người đọc… Cuối cùng, Di Li mới kể-tả việc ăn thịt bằng mấy giác quan cùng với những kiến thức mờ ảo hư-thực kia, mà vẫn không quên báo giá. Đọc về ẩm thực kiểu này còn thấy “ngon” hơn là đi ăn thật. Đúng là văn du ký của một người chuyên viết chuyện trinh thám!” – Nhờ thơ Đỗ Trung Lai
“Di Li viết tinh tế, bài bản, sâu sắc và hài hước nữa, kể chuyện cứ như chơi. Cái món du ký ẩm thực ấy, nếu không hiểu biết rộng và sâu để mà liên tưởng, để mà so sánh món này món kia, xứ này xứ kia, người này người kia…như kiểu vừa nêm gia vị cho hợp khẩu lại vừa trình bày món ăn cho bắt mắt thị giác thì chỉ là tả lại một món ăn theo một cách rất thô. Nhưng Di Li đã biến nó thành những bữa tiệc tràn đầy ánh sáng và biểu cảm văn hóa, để trở thành một thiên đường lộng lẫy. Viết về cà ri Ấn Độ thì có phải là cà ri nữa đâu, mà đã vượt lên khỏi cà ri, là văn hóa, vượt lên cả văn hóa, nó là những bí ẩn chữa giải mã mà con người luôn thèm khát kiếm tìm” – Nhà thơ Văn Công Hùng
Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà – Cuốn sách du ký ẩm thực của tác giả Di Li. Với hơn 300 trang sách, Di Li đưa chúng ta chu du và thưởng thức ẩm thực từ vùng đất này đến vùng đất khác, khắp nơi thế giới. Bạn có thể tình cơ bắt gặp những chú bò Kobes hạnh phúc, đỉnh cao ẩm thực tối giản từ món Sushi của người Nhật, đến những món ăn mỹ vị Trung Hoa hay những món ăn từ Địa Trung Hải, Đại Tây Dương…Hơn cả một cuốn sách du ký hay ẩm thực đơn thuần, cuốn sách hai trong một này sẽ đưa bạn từ bất ngờ này đến những bất ngờ khác để rồi bạn phải tự hỏi “phải chăng là mình đã đi vòng quanh thế giới?”.
Trích sách:
Những chú bò hạnh phúc giữa thành phố Kobe
Chiều hôm trước tôi đã trải qua một bữa tối tẻ ngắt ở khu Dotonbori, vị trí được đánh dấu năm sao ở Osaka. Dotonbori có nhẽ là khu phố đi bộ sầm uất nhất vùng Kansai. Nó nổi tiếng bởi cây cầu gỗ bắc qua dòng sông lặng lờ. Người Nhật có truyền thống làm cầu gỗ, nên các lái buôn Nhật Bản sang đến Hội An định cư rồi ở lại đấy cũng xây một cây cầu gỗ nhỏ xinh cho du khách ngày nay qua lại. Lúc tôi vừa bước chân qua cầu thì trời đổ cơn mưa nặng hạt, mà tôi không biết rằng mấy ngày sau mưa sẽ muốn nuốt trôi cả thành phố này lẫn Kyoto và Hiroshima. Tôi đành trú tạm dưới chiếc dù trước cửa một nhà hàng và lơ đãng ngó những du khách đang đi thuyền trên sông. Trời mưa trắng xóa lòng nước, và con thuyền lừ đừ chở một đoàn lụp xụp áo mưa đang xuôi dòng, trông như âm binh địa phủ. Dotonbori cũng
là chốn vô vị, ngoài các nhà hàng và Zara, H&M, Mango…giống như một đại thương xá thì không còn gì hấp dẫn. Cơn mưa chẳng có vẻ gì sẽ ngớt và tôi xuống hầm gọi một bát mì Ramen thịt bò giá 1000 yên với lèo tèo vài vụn thịt bò, trong khi sợi mì và nước dùng nhạt nhẽo y như quang cảnh dưới lòng sông. Quán mì Ramen do chủ Trung Quốc sở hữu, hệt hồi đầu năm, tôi ăn món gà xào cay với kim chi trong một nhà hàng của người Hoa ở Gyeongju, Hàn Quốc. Vị nguyên bản của nó đã chẳng lấy gì làm ngon, qua tay đầu bếp Tàu và cách phục vụ của người Tàu còn hành khổ thực khách hơn. Từ bữa mì hôm ấy, cơn thèm thịt bò của tôi bắt đầu trỗi dậy, dù ở nhà tôi là dân ăn kiêng. Người Nhật tuy bị các nhà cải cách ẩm thực phàn nàn rằng ngày càng ngốn nhiều thịt với vô số thống kê cho thấy chỉ số nhập khẩu thịt của Nhật đang tịnh tiến chóng mặt, tuy nhiên đối với người Mỹ thì Nhật, Hàn có vẻ vẫn là những quốc gia “ăn chay”. Lý do ăn ít thịt ở Nhật trở nên dễ lý giải hơn khi tôi điều tra về “văn hóa thịt” của Hàn Quốc (mà tôi cho rằng việc người Hàn ưa ăn thịt chó cũng xuất phát từ lý do thiếu gia súc một cách trầm trọng trong quá khứ, nên họ mới đành chén luôn cả chó nhà). Nhật Bản đã trải qua một đêm trường trung cổ đằng đẵng không được ăn thịt. Trong suốt 1200 năm, kể từ năm 675 sau Công nguyên, Thiên hoàng Tenmu đã ban bố lệnh cấm giết mổ gia súc trên toàn cõi Nhật Bản, trong danh mục cấm bao gồm cả ngựa, chó và khỉ. Các tài liệu lịch sử đều cho rằng Nhật Bản là quốc gia theo Phật giáo và Thần đạo, Thiên hoàng Tenmu lại đặc biệt sùng đạo nên mới bắt dân chúng kiêng thịt. Nhưng tôi lại tin vào những nghiên cứu có lý hơn, ấy là tới thế kỷ thứ VII thì Nhật Bản thiếu đất canh tác trầm trọng tới mức ngay cả rừng cũng bị đốn hạ để làm cánh đồng và nơi chăn thả gia súc. Mà quốc đảo này lúc nào chả thiếu đất. Những hòn đảo đã chật hẹp lại chỉ toàn rừng với núi. Chẳng cần phải chờ đến thế kỷ 21, khi dân số Nhật Bản đã tăng lên hơn 127 triệu người, mà từ thời trung cổ, Nhật còn thiếu cả đất cho gia súc. Có lẽ bí quá mà Tenmu mới cực chẳng đã phải đưa ra quyết định này. Và lệnh cấm thịt trở nên hà khắc hơn cả vào thời kỳ Edo (1603-1867), tới mức người nào bị phát hiện ra vừa ăn thịt sẽ bị cấm túc ăn chay trong vòng 100 ngày. Người nào cả gan ngồi chung bàn với kẻ tội đồ đã từng phạm tội… ăn thịt cũng sẽ bị coi như tòng phạm, cấm túc 21 ngày. Người vô duyên hớ hênh không biết mà ngồi nhậu nhẹt với kẻ từng có bạn phạm tội ăn thịt thì bị phạt 7 ngày. Tất cả nhằm mục đích cô lập kẻ ăn thịt xấu xa. Con dân cả nước vì thế hầu như ăn chay, ngoài cá tôm ngoài biển khơi thì nhất định không được chạm tới thịt. Duy nhất có lính triều đình trong thời kỳ nghĩa vụ quân sự sẽ được phép ăn thịt để lấy sức chiến đấu. Nhưng đến khi giải ngũ về làm dân thì họ phải theo phép vua ăn chay trở lại. Nhiều giai thoại kể về những anh lính cuồng thịt (chắc cũng cuồng đến như chúng tôi mấy ngày trên đất Nhật, Hàn là cùng), là đã quen được nếm thịt trong quân ngũ nên khi trở lại ăn cơm “không người lái” thì thèm thịt không chịu nổi, thành thử lính giải ngũ của Thiên hoàng thi thoảng lại lén lút giết trộm một con vật để đánh chén, bất chấp hôm sau bị bêu ra trước công luận cũng đành.
Những món ăn của nàng Dae Jang Gum
Hồi trước, tôi vốn chết mê chết mệt những món ăn của nàng Dae Jang Gum. Các bữa tiệc hoàng cung do nàng Dae, một siêu đầu bếp, trình diễn thật ngoạn mục, nhìn chỉ muốn chui vào màn ảnh để ăn cùng. Nên bữa ăn sáng đầu tiên ở Seoul, tôi lấy làm háo hức lắm. Người ta cho chúng tôi ăn “lẩu bò”. Sáng mùa thu giá lạnh, vừa lò dò xuống sân bay, lại trong lúc bụng đói, chân run, một bữa lẩu bò trong căn phòng ấm áp thì còn gì bằng. Các quán ăn của người Hàn thường ngồi phản, trước mặt là một chiếc bàn vuông bằng gỗ, nom rất ấm cúng. Đầu tiên người ta bưng cho chúng tôi mỗi bàn một bát Kim chi. Không giống Kim chi chua ngọt dễ chịu như trong các quán cơm ta, Kim chi Hàn Quốc cay và mặn. Mãi sau tôi mới biết cái vị mặn đến váng đầu ấy là để dùng vào việc gì. Kế đó, mỗi người được phục vụ một bát “lẩu bò”, trông giống bát phở, chứ không phải là nồi lẩu như ai cũng nghĩ thế. Thôi không phải lẩu thì phở cũng được, đã đói lắm rồi. Chúng tôi vội vã nhấp một chút nước dùng, song ai nấy đều nhăn nhó mặt mày. Nước dùng có vị ngọt lịm của cốt xương và thịt nhưng nhạt hoét, nó thiếu muối, hay nói đúng hơn là không có chút muối nào. Cả đoàn hơn hai chục con người nháo nhác đi tìm gia vị. Anh So, một nhân viên của công ty đối tác, vội giải thích rằngchúng tôi phải tự pha chế muối, lẩu bò ở Hàn Quốc là thế, mà tốt nhất là cho Kim chi vào ăn kèm. Chúng tôi loay hoay tự pha chế, rồi cuối cùng cũng xong. Nước dùng đã rất ngon, có những lát thịt bò giống thịt bò chín trong phở, cũng ngon, song bên dưới là mỳ chứ không phải bánh phở. Tuy nhiên khi ăn được vài miếng lại thấy có vài hạt cơm bên dưới. Sao thế này? Khuấy lên thấy lõng bõng như cháo. Thôi thì cháo, thôi thì cơm cũng tốt. Ở nhà cơm, cháo, mỳ vẫn chẳng phải là những món quen thuộc hay sao. Sau khi ăn xong (nghĩa là cố lắm chỉ hết một nửa), một người băn khoăn nhìn vào bát “lẩu bò” bảo “Đây là mỳ”. Người khác phản đối “Không phải mỳ, là cháo”. Tức thì một làn sóng tranh cãi nổi lên. Tất cả nhao nhao chia làm hai phe: phe cháo và phe mỳ. Cuối cùng một người kết luận “Không phải cháo, không phải mỳ, mà là mỳ – cháo”. Đúng rồi, mỳ cháo, chúng tôi thở dài, vì nó có cả mỳ lẫn cháo. Sau rốt, khi cả đoàn đã yên vị trên xe, anh So hỏi to “Quý vị ăn lẩu bò có thấy ngon không?” – “Ngon lắm, cảm ơn anh So”, tất cả chúng tôi đồng thanh.
Cá tuyết Đại Tây Dương
Những món ăn nổi tiếng của Bồ Đào Nha chủ yếu là hải sản. Chuyến đi này của tôi, vì thế có thể được đặt tên là “tour hải sản”. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Maroc chung một nguồn đánh bắt từ Đại Tây Dương. Tôm cá ngoài sân nhà ta thì ta xài. Dường như dân cư ở ba quốc gia này chỉ việc khom lưng mà vợt cua cá đặt lên mâm. Khắp thành phố Lisbon, đứng từ ngõ ngách nào cũng nhìn ra lấp lánh màu xanh của biển cả. Những dân tộc không có nổi một đường bờ biển như Séc, Áo, Hungary, Slovakia, Iraq, Congo, Zambia, Boswana và cả Lào thì hẳn phải giận lắm ông Trời mà ngồi đó ghen tị. Quốc gia không có biển cũng hiếm. Những cư dân đầu tiên của Trái đất luôn phải bám lấy nước mà sống. Và tổ tiên của người Bồ Đào Nha bây giờ, mà các nhà khảo cổ học tin rằng họ từng vượt biển vào bán đảo từ Bắc Phi, đã vô cùng khôn ngoan khi chọn một vùng đất nhỏ bé mà phân nửa chu vi là đường bờ biển.
Đã đến Lisbon là phải ăn hải sản. Từ quảng trường Comercio đi dọc bãi biển sẽ thấy bạt ngàn nhà hàng với các lan can bằng sắt tuyệt đẹp và tôi đã nhìn thấy một thực đơn rất nhiều hải sản mà giá cả cũng không tới nỗi làm khách hoảng hồn. Một trong những hải sản nổi tiếng nhất của Bồ Đào Nha là cá tuyết, song tôi thấy nó nhạt nhẽo và không thú vị bằng một đĩa salad bạch tuộc. Vùng biển Đại Tây Dương cũng rất nhiều bạch tuộc. Chúng tươi rói và thơm giòn khi có mặt trên đĩa. Chẳng viễn khách nào từ chối nổi một đĩa bạch tuộc hấp dẫn nhường ấy. Khác với bạch tuộc Pulpo a la Gallega ở Madrid chỉ có dầu ô liu, ớt bột và muối hạt, salad bạch tuộc Bồ Đào Nha còn được trộn dầu dấm, hành tây, mùi tây, tỏi tươi và thêm ít quả chua từa tựa móc mật. Này nhá, nếu bạn được ngồi trên chiếc lan can đu mình ra Đại Tây Dương xanh thẳm với những con thuyền neo đậu đàng xa mà thưởng thức salad bạch tuộc béo ngậy, món ăn nằm trong danh mục 7 ẩm thực không thể bỏ qua khi đến Lisbon, thì bạn sẽ chẳng bao giờ còn muốn chê bai thành phố của những nhà hàng hải giỏi nhất thế giới này (rất nhiều người đã chê Lisbon là tẻ nhạt và vô vị), và bạn sẽ thấy đời chỉ sướng đến thế là cùng. Rằng ăn cũng là một thứ khoái lạc, ăn bạch tuộc còn mang lại khoái cảm nhiều hơn nữa, và ăn bạch tuộc giữa xanh ngắt của trời mây nước thì e rằng nỗi cực khoái của con người sẽ thăng hoa gấp vạn lần.
Có thể bạn muốn xem
Vị tu sĩ bán chiếc Ferrari
Trò Chuyện Với Cõi Vô Hình
Canh chua cá và tiếng ầu ơ…
Năm cuốn sách giúp độc giả hiểu rõ về mạng xã hội
Biết ơn không nhất thiết cần phải mắt thấy tai nghe…
Bí mật cổ Sri Lanka: Cánh cổng thiêng bước vào Vũ trụ?
Những câu chuyện bí ẩn về đứa trẻ mắt đen trên thế giới
Tâm lý học về sự trì hoãn
Những xu hướng đọc của Gen Z